Phát triển thị trường cho người nghèo tiểu vùng Tây Bắc thông qua mô hình du lịch cộng đồng
Trong thời gian quan, tiểu vùng Tây Bắc rất chú trọng thực hiện mô hình bản du lịch cộng đồng góp phần tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa của địa phương qua các tác động trực tiếp, gián tiếp và lan tỏa của hoạt động du lịch. Bên cạnh những bản du lịch cộng đồng thành công thì vẫn còn nhiều điểm du lịch cộng đồng thất bại không mang lại lợi ích cho người nghèo. Do đó, việc đánh giá thực trạng mô hình du lịch cộng đồng nhằm phát triển thị trường cho người nghèo là hết sức cần thiết. Qua nghiên cứu, bài viết sẽ đóng góp một số lý thuyết, kinh nghiệm thực tiễn cho việc xây dựng thành mô hình du lịch cộng đồng góp phần phát triển thị trường cho người nghèo tiểu vùng Tây Bắc.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHO NGƯỜI NGHÈO TIỂU VÙNG
TÂY BẮC THÔNG QUA MÔ HÌNH DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
TÓM TẮT
Bài viết tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về du lịch cộng đồng, mô hình phát triển du lịch cộng đồng bền vững, đánh giá thực trạng du lịch cộng đồng tiểu vùng Tây Bắc, xác định 12 điểm thành công và 9 điểm hạn chế của du lịch cộng đồng, từ đó đề xuất 4 giải pháp nhằm phát triển thị trường cho người nghèo tiểu vùng Tây Bắc thông qua mô hình du lịch cộng đồng theo hướng bền vững.
NỘI DUNG
- KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
1.1. Khái lược về du lịch dựa vào cộng đồng
Du lịch cộng đồng (Du lịch dựa vào cộng đồng) là loại hình du lịch trong đó người dân địa phương tham gia kiểm soát và quản lý chặt chẽ trong phát triển du lịch. Nó được quản lý và sở hữu bởi cộng đồng, vì lợi ích của cộng đồng, tạo điều kiện cho khách du lịch tham quan để nâng cao nhận thức và tìm hiểu về các cộng đồng địa phương và cách thức của cuộc sống (Häusler and Strasdas, 2003).
Thuật ngữ “dựa vào cộng đồng” thể hiện vai trò quan trọng của cộng đồng trong phát triển du lịch. Người dân trong cộng đồng trực tiếp tham gia kiểm soát các tài nguyên du lịch và hỗ trợ cho du khách có cơ hội tìm hiểu và nâng cao nhận thức của mình tại không gian sinh sống của cộng đồng trong địa phương.
Sự ra đời của loại hình du lịch cộng đồng vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, bắt nguồn từ những tác động bất lợi của loại hình du lịch đại chúng (Mass Tourism – du lịch đại chúng/du lịch thông thường/du lịch quy mô lớn) như các vấn đề về ô nhiễm môi trường sống; các vấn đề tệ nạn xã hội hay kinh tế địa phương bị lệ thuộc vào sự phát triển của du lịch; mâu thuẫn giữa người dân địa phương không tham gia kinh doanh du lịch với các đối tượng kinh doanh có xu hướng ngày càng tăng.
Ở giai đoạn này, nhiều tổ chức quốc tế đã nhận thức được những tác động tiêu cực ngày càng tăng của du lịch đại chúng và đã cố gắng tìm ra một hướng đi mới cho việc phát triển du lịch đảm bảo sự cân đối hài hòa với thiên nhiên, giá trị xã hội và cộng đồng, hình thức du lịch thay thế (Alternative tourism) đã được đề cập đến trong những năm 1980 và 1990.
Theo Smith và Eadington (1992), du lịch thay thế là một loại hình du lịch tập trung vào mối quan hệ và sự gắn kết giữa cộng đồng dân cư, môi trường sinh thái và khách du lịch trong quá trình phát triển du lịch tại điểm đến. Nghiên cứu của Leong (2008) chỉ ra rằng một trong những loại hình du lịch thay thế thích hợp nhất đó là du lịch bền vững (sustainable tourism), theo ông du lịch bền vững là một hình thức phát triển du lịch trong đó tập trung vào việc chăm sóc và bảo vệ hệ sinh thái và môi trường. Nhiều loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch trang trại nông nghiệp nông thôn, du lịch văn hóa, du lịch bản địa, du lịch có trách nhiệm… đã được giới thiệu để đối phó với những tác động xã hội và môi trường của ngành du lịch du lịch đại chúng trước đây.
Những loại hình du lịch thay thế gắn với quan điểm du lịch bền vững đề cập ở trên mà có sự tham gia trực tiếp của cộng đồng người dân bản địa trong hoạch định chính sách, quản lý thực hiện và kiểm tra giám sát hoạt động du lịch thì có thể được gọi chung một thuật ngữ là du lịch dựa vào cộng đồng (Community-Based Tourism).
1.2. Mô hình phát triển du lịch cộng đồng bền vững theo chuỗi giá trị
Theo Nguyễn Kỳ Anh và Nguyễn Quốc Việt (2012), chuỗi giá trị du lịch là chuỗi giá trị cung ứng dịch vụ du lịch và điều kiện môi trường liên quan trên phạm vi toàn quốc gia, tương tự đối với điểm đến vùng, địa phương hay một khu, điểm du lịch. Các chức năng chính của chuỗi giá trị du lịch bao gồm: (1) nghiên cứu và phát triển sản phẩm du lịch; (2) thiết kế các sản phẩm du lịch, dịch vụ, quy trình tạo ra sản phẩm; nghiên cứu marketing và bán hàng; (4) phân phối sản phẩm du lịch; (5) Dịch vụ khách hàng.
Hình 2: Mô hình phát triển du lịch cộng đồng bền vững
(Nguồn: Nguyễn Kỳ Anh và Nguyễn Quốc Việt, năm 2012)
Địa phương cần chủ động tạo ra chuỗi giá trị du lịch với sự tham gia của chính quyền, doanh nghiệp du lịch và cộng đồng dân cư vào tất cả các bước tạo ra giá trị gia tăng cho SP cuối cùng nhằm cung cấp cho khách du lịch những sản phẩm du lịch có giá trị gia tăng cao thoả mãn cao độ nhu cầu khách hàng, đồng thời mang lại lợi ích kinh tế cho chính quyền, doanh nghiệp du lịch và dân cư tại điểm đến. Tất cả hoạt động và thành phần trên đặt trong một thể chế đảm bảo phát triển du lịch theo hướng xanh và bền vững.
1.3. Phát triển du lịch cộng đồng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, du lịch đại chúng phát triển nhanh chóng tại một số điểm như Vịnh Hạ Long, Hà Nội, khu vực miền Trung (Đà Nẵng, Huế, Hội An), thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra không ít những thách thức cho ngành du lịch như tình trạng quá tải lượng khách đến thăm, vấn đề ô nhiễm môi trường. Điều này cho thấy ngành du lịch cần thiết phải xem xét và xây dựng một cách tiếp cận theo quan điểm phát triển du lịch bền vững, đây cũng là một trong những xu thế phát triển chung cho ngành công nghiệp du lịch thế giới.
Các sáng kiến về du lịch dựa vào cộng đồng sớm nhất ở Việt Nam đã được đưa vào từ những năm 1985 tại một số điểm như Mai Châu (Hòa Bình); Đảo Bắc và Thới Sơn (Tiền Giang). Những dự án du lịch cộng đồng này đã phần nào phản ảnh khả năng nhận thức của Việt Nam trong lựa chọn loại hình du lịch thay thế cho du lịch đại trà. Từ những năm 1990, với chính sách mở cửa nền kinh tế và sự phổ biến về quan niệm “Phát triển bền vững”, thì du lịch cộng đồng đã được phát triển và mở rộng thêm tị các điểm như: Sa Pa (Lào Cai); Phố cổ Hội An (Quảng Nam); Châu Đốc (An Giang); Huế…
Với tiềm năng và thế mạnh của 54 dân tộc anh em sinh sống tạo nên một kho di sản văn hóa đặc sắc và phong phú, đặc biệt là những nét văn hóa, phong tục tập quán truyền thống của cộng đồng các dân tộc đang sinh sống tại các khu vực miền núi, cùng với quan niệm về vấn đề “du lịch có trách nhiệm” đang nổi lên toàn cầu cho thấy Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn không chỉ đối với khách quốc tế mà ngay cả khách trong nước. Điều này tạo cơ hội cho cộng đồng có thêm thu nhập, việc làm cũng như những cơ hội để cải thiện và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở địa phương như hệ thống giao thông, y tế, mạng thông tin di động… Trên thực tế, hoạt động du lịch cộng đồng tại Việt Nam đã nhận được sự quan tâm, đầu tư, giúp đỡ của các cơ quan phát triển, các tổ chức phi chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch và cộng đồng địa phương, đây cũng là một cơ hội rất tốt để cộng đồng địa phương phát triển kinh tế, góp phần xóa đói, giảm nghèo.
Theo số liệu thống kê đến 2013, Việt Nam có khoảng 35 dự án phát triển du lịch dựa vào cộng đồng triển khai trên 20 tỉnh. Hầu hết các dự án du lịch cộng đồng này được hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan phát triển, bao gồm: Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV), Liên minh bảo tồn thiên nhiên (IUCN), Động thực vật quốc tế (FFI), Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Dự án Caritas (Thụy sỹ), GTZ (Đức), Counterpart International (Mỹ), IPADE (Tây Ban Nha), Agriterra (Hà Lan) và quỹ Động vật hang dã thế giới (WWF).
- THỰC TRẠNG DU LỊCH TẠI TIỂU VÙNG TÂY BẮC
2.1. Khát quát chung về tiểu vùng Tây Bắc
Theo Quyết định số 1064/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng trung du và miền núi phía Bắc đến năm 2020” thì tiểu vùng Tây Bắc gồm bốn tỉnh là Hòa Bình; Sơn La; Điện Biên và Lai Châu. Diện tích tự nhiên của vùng là 37.416 km2, chiếm 11,3% diện tích cả nước. Tổng số dân tiểu vùng Tây Bắc tính đến năm 2015 là 2.629,3 nghìn người chiếm 2,8% dân số cả nước, trong đó duy nhất tỉnh Sơn La có dân số trung bình trên 1 triệu người. Mật độ dân số bình quân khoảng 90 người/km2, tương ứng khoảng 35,4% mật độ trung bình của cả nước (268 người/km2), là khu vực có mật độ dân số thấp thứ hai cả nước (thấp nhất cả nước là khu vực Tây Nguyên), trong đó tỉnh có mật độ dân số thấp nhất toàn quốc là tỉnh Lai Châu với 44 người/km2, bằng 1/10 so với mật độ dân số của vùng có mật độ dân số cao nhất là Đồng bằng sông Hồng (1.244 người/km2).
Bảng 1: Thống kê một số chỉ tiêu thuộc tiểu vùng Tây Bắc
TT | Chỉ tiêu | Đơn vị tính | Địa bàn (tỉnh) | Cộng
(trung bình) |
|||
Hòa Bình | Sơn La | Điện Biên | Lai Châu | ||||
1 | Diện tích tự nhiên | Km2 | 4.608,7 | 14.174,4 | 9.562,9 | 9.068,8 | 37.414,8 |
2 | Dân số | Nghìn người | 808,2 | 1.195,2 | 527,3 | 404,5 | 2.935,2 |
3 | Mật độ trung bình | Người/km2 | 175 | 81 | 55 | 45 | 89 |
4 | Dân tộc | Dân tộc | 10 | 12 | 21 | 20 | 22 |
(Nguồn: Niên giám thống kê – Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, 2015)
2.2. Số lượng khách du lịch đến tiểu vùng Tây Bắc trong thời gian qua
Trong thời gian qua với lợi thế vị trí địa lý gần thủ đô Hà Nội và có sự phát triển sớm hơn nên lượng khách đến tỉnh Hòa Bình đông nhất tiểu vùng, sau đó đến Sơn La, Điện Biên và Lai Châu (Bảng 2).
Bảng 2: Lượng khách du lịch đến các tỉnh tiểu vùng Tây Bắc
giai đoạn 2005 – 2015
Đơn vị tính: Lượt
Năm | Các tỉnh tiểu vùng Tây Bắc | Tổng | |||||||
Hòa Bình | Sơn La | Điện Biên | Lai Châu | ||||||
Q.tế | N.Địa | Q.tế | N.Địa | Q.tế | N.Địa | Q.tế | N.Địa | ||
2005 | 28.853 | 306.570 | 17.198 | 138.802 | 12.000 | 118.000 | 3.695 | 34.528 | 659.646 |
2006 | 39.802 | 439.937 | 18.900 | 167.898 | 16.000 | 139.000 | 4.200 | 43.300 | 869.037 |
2007 | 48.529 | 564.826 | 24.506 | 194.994 | 22.000 | 158.000 | 5.600 | 52.900 | 1.071.355 |
2008 | 66.448 | 699.092 | 27.400 | 307.600 | 30.000 | 170.000 | 6.500 | 61.500 | 1.368.540 |
2009 | 67.000 | 886.000 | 32.000 | 322.915 | 42.000 | 208.000 | 8.000 | 66.000 | 1.631.915 |
2010 | 85.000 | 1.105.000 | 36.000 | 344.000 | 52.000 | 253.000 | 8.500 | 73.500 | 1.957.000 |
2011 | 90.850 | 1.385.830 | 36.000 | 368.000 | 64.000 | 289.000 | 12.500 | 97.500 | 2.343.680 |
2012 | 92.056 | 1.641.886 | 42.000 | 493.000 | 65.000 | 300.000 | 14.190 | 115.810 | 2.763.942 |
2013 | 161.383 | 1.750.949 | 43.000 | 493.000 | 67.475 | 340.500 | 16.520 | 132.330 | 3.005.157 |
2014 | 185.361 | 1.918.846 | 39.000 | 765.000 | 75.000 | 394.000 | 21.360 | 148.664 | 3.547.231 |
2015 | 222.057 | 2.346.386 | 40.000 | 740.000 | 72.000 | 412.000 | 21.500 | 160.900 | 4.014.843 |
(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện du lịch các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu các năm từ 2005 – 2015)
Đối với các điểm du lịch cộng đồng, lượng khách đến các tỉnh cũng lần lượt theo thứ tự từ cao xuống thấp là: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Lượng khách đến các điểm du lịch cộng đồng chiếm tỷ lệ khoảng 10% so với tổng số khách du lịch. Với tỷ lệ còn khá khiêm tốn như vậy thì những đóng góp của du khách cho cộng đồng địa phương không có nhiều, mặt khác tiểu vùng Tây Bắc chưa khai thác được triệt để thể mạnh về tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo là nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây.
Bảng 3: Lượng khách du lịch đến các điểm du lịch cộng đồng
giai đoạn 2010 – 2015
Đơn vị tính: Lượt
Năm | Các tỉnh tiểu vùng Tây Bắc | Tổng | |||||||
Hòa Bình | Sơn La | Điện Biên | Lai Châu | ||||||
Q.tế | N.Địa | Q.tế | N.Địa | Q.tế | N.Địa | Q.tế | N.Địa | ||
2010 | 26.000 | 110.850 | 7.520 | 34.200 | 6.200 | 24.800 | 1.100 | 5.450 | 216.120 |
2011 | 34.850 | 140.000 | 8.140 | 37.000 | 7.000 | 28.800 | 1.490 | 7.300 | 264.580 |
2012 | 35.270 | 160.700 | 10.400 | 47.380 | 7.800 | 31.500 | 1.720 | 8.400 | 303.170 |
2013 | 43.220 | 172.800 | 11.570 | 52.750 | 8.800 | 35.200 | 2.100 | 9.760 | 336.180 |
2014 | 46.300 | 185.000 | 17.000 | 77.800 | 10.600 | 42.400 | 2.500 | 11.600 | 393.200 |
2015 | 60.000 | 256.000 | 16.560 | 75.500 | 10.900 | 43.700 | 3.000 | 13.700 | 479.360 |
Nguồn: Sở VHTT&DL các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu giai đoạn từ 2010 – 2015)
Mặc dù thời gian gần đây, các tỉnh tiểu vùng Tây Bắc đã nỗ lực tập trung phát triển mô hình các bản du lịch cộng đồng nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện các dự án hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng nhưng hiệu quả chưa đạt được như mong muốn, chưa có mô hình phát triển bền vững. Trong 39 điểm du lịch cộng đồng thỉ chỉ có 16 (chiếm 41%) điểm thu hút được đông khách du lịch, các điểm khác (59%) chưa thu hút được khách du lịch.
Bảng 4: Thống kê các điểm du lịch cộng đồng trên địa bàn tiểu vùng Tây Bắc
Chi tiêu | Các tỉnh tiểu vùng Tây Bắc | Tổng | |||
Hòa Bình | Sơn La | Điện Biên | Lai Châu | ||
Tổng số điểm du lịch cộng đồng | 12 | 11 | 10 | 6 | 39 |
Số điểm thu hút khách du lịch | 4 | 4 | 4 | 4 | 16 |
Số điểm ít khách du lịch | 8 | 7 | 6 | 2 | 23 |
Nguồn: Sở VHTT&DL các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu
2.3. Những thành công và hạn chế của du lịch cộng đồng tiểu vùng Tây Bắc
Với những điểm du lịch cộng đồng thành công, qua nghiên cứu và tham vấn ý kiến chuyên gia, nhóm nghiên cứu xác định có 12 yếu tố cơ bản thực hiện thành công du lịch cộng đồng, gồm: (1) Cộng đồng có sự đoàn kết và gắn bó; (2) Tính độc đáo riêng có tại mỗi điểm du lịch cộng đồng; (3) Sự tác động ảnh hưởng của những khu vực lân cận cho phát triển du lịch cộng đồng; (4) Sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc lập kế hoạch và quản lý; (5) Năng lực của cộng đồng và chính quyền địa phương được xây dựng tốt; (6) Tầm quan trọng của kinh nghiệm thực tiễn của người dân; (7) Sự hợp tác chặt chẽ với chính quyền địa phương; (8) Khả năng liên kết thị trường; (9) Cơ chế quản lý và lãnh đạo tốt; (10) Đảm bảo sự công bằng trong chia sẻ các lợi ích giữa các thành viên; (11) Hình thành và quản lý tốt chuỗi cung ứng các sản phẩm du lịch; (12) Có sự kiểm tra, giám sát liên tục.
Điều này cho thấy du lịch cộng đồng ở tiểu vùng Tây Bắc đã có những bước đầu thành công, những thành công đó đã có sự hỗ trợ, phối hợp rất tốt của người dân, chính quyền địa phương, các chuyên gia và các tổ chức quốc tế.
Bên cạnh những thành công của du lịch cộng đồng tại Việt Nam, qua tổng kết của các dự án phát triển du lịch cộng đồng, nhóm nghiên cứu rút ra 9 hạn chế cản trở đến phát triển du lịch cộng đồng Việt Nam, gồm: (1) Nhận thức về du lịch cộng đồng của người dân địa phương còn nhiều hạn chế; (2) Sự tham gia thụ động của người dân địa phương; (3) Những lợi ích mà người nghèo nhận được ít hơn số khác; (4) Thiếu đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao; (5) Khả năng marketing về du lịch cộng đồng kém; (6) Vấn đề quản lý và chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch trong cộng đồng chưa đảm bảo tính công bằng; (7) Thiếu cơ hội cho người dân địa phương để chia sẻ những gì họ đang làm; (8) Thủ tục hành chính đối với người nước ngoài khi đến các vùng sâu, vùng xa còn rườm rà; (9) Thiếu phương tiện vận tải.
- MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHO NGƯỜI NGHÈO TIỂU VÙNG TÂY BẮC QUA MÔ HÌNH DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
Qua việc đánh giá thực trạng du lịch cộng đồng tiểu vùng Tây Bắc, xác định những thành công và hạn chế trong mô hình phát triển du lịch cộng đồng, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường cho người nghèo tiểu vùng Tây Bắc thông qua mô hình du lịch cộng đồng như sau:
3.1. Lựa chọn đúng điểm du lịch cộng đồng có tài nguyên du lịch phù hợp
Chính quyền địa phương cần lựa chọn các điểm bản nghèo có tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn nổi bật độc đáo như cảnh quan thiên nhiên đẹp, hùng vĩ, còn nguyên sơ, có suối khoáng nước nóng, có nét văn hóa truyền thống độc đáo của người dân tộc, kiến trúc nhà ở, các lễ hội tâm linh…. Đồng thời, ưu tiên lựa chọn những điểm bản du lịch cộng đồng thuận tiện trên những tour tuyến du lịch đã có hoặc có khả năng kết nối với những điểm du lịch khác trong khu vực.
3.2. Xây dựng quy chế hợp tác giữa doanh nghiệp và cộng đồng địa phương
Để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cộng đồng địa phương, chính quyền cần quy định quyền khai thác tài nguyên du lịch của bản du lịch cộng đồng gắn với trách nhiệm về kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường của doanh nghiệp đối với cộng đồng bản địa. Những doanh nghiệp không thực hiện đúng những cam kết, thỏa thuận mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương sẽ mất quyền khai thác tài nguyên du lịch.
3.3. Gia tăng giá trị của cộng đồng địa phương trong chuỗi giá trị du lịch
Để tăng thu nhập cho người dân địa phương thì mỗi bản du lịch cộng đồng cần rà soát, nâng cao chất lượng dịch vụ lưu trú, ăn uống. Nơi nghỉ phải đảm bảo tiêu chuẩn homestay về diện tích, vệ sinh, tiện dụng; nấu ăn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng nguyên liệu địa phương: trồng rau, chăn nuôi gia cẩm… Đồng thời để tăng doanh thu cho địa phương thì cần nâng cao kỹ năng hướng dẫn du lịch, kỹ năng biểu diễn văn nghệ dân gian truyền thống, hướng dẫn du khách hòa đồng trài nghiệm cuộc sống và văn hóa bản địa nhằm mang lại sự thỏa mãn và hài lòng của khách du lịch.
3.4. Phát huy đúng vai trò của các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng
Các tổ chức đoàn thể như cơ quan chính quyền, hội người cao tuổi, cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên,… đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch cộng đồng. Trong đó, tổ chức chính trị xã hội đoàn thanh niên giữ vai trò then chốt, là động lực thúc đẩy phát triển mô hình bản du lịch cộng đồng. Với thế hệ trẻ, họ sẵn sàng đón nhận những cái mới, đóng vai trò tiên phong trong tiếp nhận, hướng dẫn du khách, tổ chức biểu diễn văn nghệ. Hội người cao tuổi, hội cựu chiến binh giữ vai trò là những người gìn giữ truyền thống văn hóa, lịch sử, truyền dạy những nghề truyền thống. Hội phụ nữ tham gia các mô hình sản xuất chăn nuôi, trồng rau, nấu ăn phục vụ du khách. Để kết nối và phát huy được thế mạnh các tổ chức đoàn thể nói trên thì vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền địa phương đóng vai trò là người định hướng, khuyến khích thực hiện bằng cơ chế, chính sách phù hợp với từng địa phương.
KẾT LUẬN
Để phát triển thị trường cho người nghèo thông qua mô hình du lịch cộng đồng thì trước tiên cả chính quyền, các tổ chức đoàn thể và cộng đồng dân cư địa phương cần nhận thức đúng vai trò và tác dụng trực tiếp, gián tiếp và lan tỏa của du lịch đối với phát triển kinh tế, phát triển địa phương. Thông qua du lịch để thúc đẩy sản xuất nông lâm ngư nghiệp, hàng thủ công truyền thống… tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ở địa phương ra thông qua thị trường khách du lịch, đây chính là một hình thức “xuất khẩu” tại chỗ. Mô hình du lịch cộng đồng bền vững tiểu vùng Tây Bắc cần phát huy đúng vai trò của chính quyền, doanh nghiệp, dân cư địa phương để tạo sức mạnh tổng hợp khai thác triệt để loại hình du lịch dựa trên tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn độc đáo của bản du lịch cộng đồng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Báo cáo tổng kết Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu giai đoạn từ 2005 đến 2015.
2) Häusler, N. and Strasdas, W. 2003. Training Manual for Community-Based
Tourism. Zschortau: InWEnt-Capacity Building International.
3) Mason, P., & Cheyne, J. (2000). Residents’ attitudes to proposed tourism development. Annals of Tourism Research, 27(2), 391-411
4) Nguyễn Đình Hoè và Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững, Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
5) Nguyễn Kỳ Anh, Nguyễn Việt Quốc (2012), Xây dựng mô hình phát triển du lịch bền vững thành phố Đà Nẵng, Tạp chí Kinh tế Xã hội Đà Nẵng
6) Niên giám thống kê các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu 2015.
7) Smith, V.L., & Eadington, W.R. (Eds.), 1992. Tourism alternatives: Potentials and problems in the development of tourism. Philadelphia, không biết chủ biên: University of Pennsylvania Press.
8) Tổng cục Du lịch Việt Nam, 2014. “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
Người viết: ThS. Đặng Trung Kiên