Chuyên mục chính
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc vận dụng kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Sơn La
1.Đặt vấn đề
Có thể nói kế toán quản trị là một bộ phận của hệ thống thông tin quản trị trong các tổ chức mà nhà quản trị dựa vào đó để hoạch định và kiểm soát hoạt động của tổ chức. Nó có vai trò quan trọng cho các tổ chức xây dựng các dự toán, hoạch định chính sách và kiểm soát mọi hoạt động của đơn vị. Bất kể khi quyết định lựa chọn một phương án tối ưu nào của nhà quản trị, bao giờ cũng quan tâm đến hiệu quả kinh tế của phương án mang lại, vì vậy kế toán quản trị phải tìm cách tối ưu hóa mối quan hệ giữa chi phí và lợi ích của phương án lựa chọn. Do đó hệ thống kế toán quản trị chi phí có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin về chi phí trong các doanh nghiệp. Kế toán quản trị chi phí luôn luôn tồn tại trong mỗi tổ chức, tuy nhiên tác dụng cung cấp thông tin cho các đối tượng khác nhau sẽ khác nhau, tuỳ thuộc vào việc xây dựng và khai thác hệ thống kế toán chi phí đó. Các doanh nghiệp ở các nước phát triển trên thế giới đã xây dựng hệ thống kế toán quản trị chi phí hiện đại, cung cấp thông tin hữu ích cho cho các nhà quản trị nội bộ để trợ giúp họ trong việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Trợ giúp nhà quản trị trong việc điều hành và kiểm soát hoạt động của tổ chức; Thúc đẩy các nhà quản trị đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp; Đo lường hiệu quả hoạt động của các nhà quản lý và các bộ phận, đơn vị trực thuộc trong doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp xây lắp kế toán quản trị chi phí lại càng có vai trò quan trọng hơn cả. Bởi so với các ngành sản xuất khác, XDCB có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc trưng, được thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của ngành. Mặt khác, hoạt động xây lắp thường tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý, sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp, dễ bị mất mát, hư hỏng làm tăng chi phí sản xuất. Bên cạnh đó, chu kì sản xuất của đơn vị xây lắp thường rất dài, nó phụ thuộc quy mô và tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thi công lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc chủ yếu diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường do vậy không thể tránh khỏi các rủi ro, làm phát sinh chi phí. Chính vì vậy thông tin về kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây dựng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp các nhà quản trị kiểm soát chi phí để vừa có thể tiết kiệm được chi phí và hạ giá thành xây lắp.
Tuy nhiên với các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn thành phố Sơn La thì kế toán quản trị chi phí vẫn còn khá mới mẻ và việc đánh giá thực trạng áp dụng kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp là thực sự cần thiết. Do đó bài viết này sẽ đưa ra những phân tích và đánh giá về thực trạng áp dụng mô hình kế toán quản trị chi phí tại các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Sơn La.
2. Đánh giá thực trạng áp dụng kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Sơn La
Trong tổng số hơn 200 doanh nghiệp có đăng ký ngành nghề xây lắp trên địa bàn thành phố Sơn La qua điều tra thực tế và sàng lọc tác giả nhận thấy chỉ có 33 doanh nghiệp xây lắp là hoạt động thường xuyên. Tuy nhiên sau khi thực hiện khảo sát sơ bộ nhóm tác giả nhận thấy việc tích phiếu tại một số doanh nghiệp không đạt yêu cầu đề ra Chính vì vậy mà nhóm tác giả đã quyết định chọn ra 5 doanh nghiệp lớn đại diện cho các tiêu thức: loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp lớn, vốn chủ sở hữu lớn, có hoạt động xây lắp diễn ra thường xuyên và doanh nghiệp hoạt động liên tục để thực hiện điều tra khảo sát
Bảng 1: Các doanh nghiệp thuộc mẫu nghiên cứu
Tên doanh nghiệp | Địa chỉ | Vốn CSH
(triệu đồng) |
Doanh thu
(triệu đồng) |
Lợi nhuận
(triệu đồng) |
Doanh nghiệp tư nhân Tuấn Hương | Tổ 1, Phường Tô Hiệu, TP Sơn La | 70.278 | 34.078 | 166 |
Công ty Cổ phần Thủy điện Nậm La | Tổ 4, Phường Quyết Thắng, TP Sơn La | 560.974 | 132.746 | 27.007 |
Công ty TNHH XD kinh doanh tổng hợp | Tổ 2, Phường Quyết Thắng, TP Sơn La | 90.070 | 56.647 | 69 |
Công ty Cổ phẩn Quỳnh Ngọc | Bản Bó, Phường Chiềng An, TP Sơn La | 122.224 | 70.710 | 590 |
Công ty TNHH đầu tư XD Hoàng Chung | Tổ 9, Phường Chiềng Lề, TP Sơn La | 79.307 | 35.590 | 416 |
(Nguồn thống kê từ phiếu khảo sát)
Theo kết quả khảo sát có thể đánh giá về thực trạng áp dụng kế toán quản trị chi phí tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Sơn La như sau:
Về phân loại chi phí: 100% doanh nghiệp đều phân loại chi phí theo chức năng của chi phí gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung.
Về xây lắp định mức chi phí và lập dự toán chi phí trong các doanh nghiệp: 100% doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Sơn La thực hiện xây dựng định mức chi phí trước khi thực hiện công trình theo từng loại chi phí cho các công trình. Tuy nhiên việc lập dự toán chưa chi tiết và gắn với nhu cầu thông tin của nhà quản trị doanh nghiệp nên phần lớn các doanh nghiệp xây lắp (80%) đều chưa coi lập dự toán là một công cụ quản lý kinh tế.
Về kế toán chi phí cho các đối tượng chịu chi phí: tại các doanh nghiệp thuộc mẫu ngẫu nhiên nghiên cứu đối tượng tập hợp chi phí là công trình, hạng mục công trình, và tập hợp chi phí theo phương pháp trự tiếp và phương pháp gián tiếp (chi phí phát sinh liên quan đến 1 công trình, hạng mục công trình thì tập hợp cho công trình, hạng mục công trình ấy; các chi phí phát sinh liên quan đến nhiều công trình, hạng mục công trình thì tập hợp chi phí sau đó phân bổ theo tiêu thức chi phí nguyên vật liệu chính)
Theo nghiên cứu, hầu hết các doanh nghiệp thuộc mẫu ngẫu nhiên tỏ ra hài lòng với hệ thống quản trị chi phí của mình, với hệ thống kế toán chi phí này đảm bảo thông tin lập báo cáo tài chính cũng như cung cấp thông tin cho nhà quản trị doanh nghiệp, ngoại trừ công ty Cổ phần Quỳnh Ngọc muốn có thể xây lắp được bộ phận kế toán quản trị trong doanh nghiệp. Như vậy cũng đã có một số nhà quản trị nhận thấy tầm quan trọng của kế toán quản trị chi phí trong hệ thống kế toán của doanh nghiệp.
Với những kết quả nghiên cứu trên mẫu về hệ thống kế toán chi phí của doanh nghiệp ở trên có thể đưa ra nhận xét:
* Ưu điểm:
– Đã tiến hành phân loại chi phí theo nội dung, chức năng của chi phí. Việc phân loại sắp xếp chi phí của doanh nghiệp đã đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin của kế toán tài chính về xác định các khoản chi phí để xác định giá thành, xác định giá trị sản phẩm dở dang cũng như lập báo cáo
– Đã tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức tập trung, có sự phân công rõ ràng nhiệm vụ, trách nhiệm
– Đã tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp theo công trình, hạng mục công trình, giúp tính giá được thực hiện đơn giản với độ chính xác cao.
* Hạn chế
– Doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn đầy đủ về vai trò, sự cần hiết của kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp do bộ máy quản trị chưa được chú trọng.
– Chưa quan tâm đến phân tách các loại chi phí khác như phân loại theo mức độ hoạt động (chi phí cố định, chi phí biến đổi) điều này gây khó khăn cho nhà quản trị khi ra quyết định
– Các doanh nghiệp trên mẫu chưa khai thác mạnh vai trò của dự toán chi phí, chưa sử dụng dự toán chi phí như một công cụ quản lý kinh tế giúp doanh nghiệp hoạch định cụ thể kế hoạch hoạt động và đánh giá trách nhiệm của quản lý các cấp của doanh nghiệp.
– Các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Sơn La hiện tại đều chưa tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chi tiết theo công trình, thị trường hay bộ phận
– Các doanh nghiệp chưa tiến hành phân tích thông tin chi phí phục vụ việc ra quyết định mà chỉ so sánh giữa giá thành thực tế và giá thành trúng thầu, việc ra quyết đinh ngắn hạn hay dài hạn chỉ chủ yếu dựa vào thông tin của kế toán tài chính mà không phải của hệ thống kế toán quản trị.
3. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng mô hình kế toán quản trị chi phí trên địa bàn thành phố Sơn La
Thứ nhất, về tổ chức bộ máy kế toán quản trị: Tùy theo quy mô của mình mà doanh nghiệp có thể chọn mô hình kế toán quản trị cho phù hợp, mô hình nên được sử dụng nhiều nhất là hình thức kết hợp. Với hình thức này, các doanh nghiệp sẽ bố trí kế toán viên theo dõi phần hành kế toán nào thì sẽ thực hiện cả kế toán tài chính và kế toán quản trị phần hành đó, kế toán trưởng sẽ chịu trách nhiệm chung về toàn bộ công tác kế toán trong doanh nghiệp từ việc tổ chức xây lắp bộ máy kế toán, lưu chuyển chứng từ, vận dụng tài khoản, hệ thống báo cáo… nhằm cung cấp thông tin cho nhà quản trị. Kế toán quản trị không sử dụng chế độ kế toán riêng, tách rời với kế toán tài chính mà sử dụng các tài khoản chi tiết, hệ thống sổ kế toán và báo cáo kế toán kết hợp chung trong một hệ thống thống nhất với kế toán tài chính. Bộ phận kế toán quản trị chi phí sử dụng báo cáo bộ phận để cung cấp thông tin cho nội bộ doanh nghiệp, bộ phận kế toán tài chính sử dụng hệ thống báo cáo tài chính để cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Thực chất, kế toán tài chính và kế toán quản trị đều nghiên cứu sự biến động của chi phí và kết quả của hoạt động vì vậy việc tổ chức mô hình kết hợp sẽ tiết kiệm được chi phí trong hạch toán kế toán, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả.
Về chứng từ và tài khoản kế toán: Đối với các doanh nghiệp đã xây lắp định mức chi phí khoa học và hợp lý nên thiết kế thêm những chứng từ phản ánh những biến động vượt định mức về vật tư, lao động (có thể thiết kế thêm những dấu hiệu riêng) để kế toán chú ý đến những chứng từ này, tìm hiểu nguyên nhân và nếu cần thiết thấy phù hợp nhằm sử dụng tiết kiệm vật tư, nhân công… trong quá trình thi công.
Về phân loại chi phí:Các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn Thành phố Sơn La cần vận dụng phương pháp phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí. Việc phân loại này sẽ góp phần cho các nhà quản trị doanh nghiệp hiểu đúng bản chất sự vận động của các yếu tố chi phí, từ đó góp phần kiểm soát các khoản chi theo các tính chất biến phí và định phí; Xây lắp báo cáo kết quả kinh doanh theo cách ứng xử chi phí, theo các bộ phận nhằm phân tích và đánh giá hiệu quả của từng bộ phận để đưa ra quyết định điều hành mọi hoạt động; Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, doanh thu và lợi nhuận, từ đó đưa ra các quyết định trong kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu cho doanh nghiệp.
Về xây lắp, quản lý, sử dụng hệ thống định mức chi phí, lập dự toán chi phí :
Các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn Thành phố Sơn La cần xây lắp hệ thống định mức chi phí phù hợp với thực tế đơn vị. Cụ thể cần bổ sung một số định mức:
Định mức vật tư tiêu hao: Các doanh nghiệp cần bổ sung định mức vật tư tiêu hao trong khâu thi công và khâu vận chuyển vật tư.
Định mức chi phí nhân công trực tiếp: Trên cơ sở định mức do Nhà nước ban hành, các doanh nghiệp nên xây lắp định mức chi phí nhân công trực tiếp tương ứng với từng bậc thợ, từng loại thợ phù hợp với điều kiện cụ thể của từng công trình, thời gian và địa điểm thi công.
Định mức chi phí ca máy: Các doanh nghiệp cần phải xây lắp bảng đơn giá ca máy cho từng máy thi công cụ thể. Đối với máy thi công thuê ngoài, đơn giá thuê cần điều chỉnh sát với giá thị trường.
Về việc xác định giá thành sản phẩm và phân tích thông tin chi phí thích hợp để ra quyết định kinh doanh:
– Xác định giá dự thầu:
Để xác định giá dự thầu, các doanh nghiệp cần lập bảng dự toán chi phí theo phương pháp trực tiếp. Giá dự thầu có thể được quyết định linh động trong khoảng từ biến phí (gồm cả thuế GTGT) đến giá trị dự toán sau thuế tùy thuộc vào doanh nghiệp có đang hoạt động trong điều kiện năng lực sản xuất nhàn rỗi, hoạt động trong điều kiện khó khăn, hoạt động trong điều kiện cạnh tranh đấu thầu hay không.
Vấn đề là doanh nghiệp phải xác định một chính sách giá phù hợp để từ đó có thể đảm bảo các khả năng lợi nhuận dự kiến là cao nhất, thấp nhất hoặc trung bình nhưng vẫn có khả năng trúng thầu.
– Về phân tích đánh giá hiệu quả của các bộ phận :
Trong các doanh nghiệp xây lắp khi có tổ chức các đội thi công xây lắp các công trình, hạng mục công trình. Vì vậy, các nhà quản trị cần xem xét và phân tích để đưa ra quyết định có nên tiếp tục hay thu hẹp hay chấm dứt hoạt động của đội thi công đó nhằm đảm bảo lợi nhuận và mức độ an toàn cho doanh nghiệp là cao nhất. Khi đưa ra quyết định này, nhà quản trị doanh nghiệp cần phải phân tích dựa trên cơ sở khoa học là: Lợi nhuận của các đội thi công (công trình, hạng mục công trình) tạo ra cho doanh nghiệp; Mối quan hệ giữa chi phí cố định trực tiếp và chi phí cố định chung của từng đội thi công (công trình, hạng mục công trình) đối với doanh nghiệp; Tác động của doanh thu của từng bộ phận (công trình, hạng mục công trình) với nhau ảnh hưởng tới doanh thu chung của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Sơn La cần quan tâm trong việc xây lắp hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán quản trị phục vụ nhu cầu cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp.
Tuy nhiên để có thể thực hiện được các giải pháp trên tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:
Về phía Nhà nước và các cơ quan chức năng:
– Nhà nước cần có những quy định mang tính hướng dẫn, định hướng tổ chức kế toán quản trị đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xây lắp nói riêng.
– Nhà nước cần có những chế tài xử phạt trong trường hợp cạnh tranh thiếu lành mạnh để các doanh nghiêp xây lắp bình đẳng tham gia đấu thầu.
– Bộ tài chính cần ban hành nội dung kế toán quản trị cho từng ngành cụ thể và thống nhất thành chuẩn mực tương tự như kế toán tài chính để những người làm kế toán hiểu một cách đầy đủ về hệ thống kế toán tại đơn vị.
Về phía các Doanh nghiệp:
– Đối với cán bộ kế toán: Cần nâng cao nhận thức và trình độ quản lý cho các nhà quản trị doanh nghiệp để nâng cao khả năng ra quyết định trong quá trình cạnh tranh và hội nhập. Đào tạo, cử nhân viên kế toán tham gia học các khóa về kế toán quản trị để đảm bảo trình độ kiến thức kế toán tài chính và kế toán quản trị, có khả năng sáng tạo, vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học vào thực tế, có sự kết hợp chặt chẽ với các bộ phận phòng ban khác.
– Về bộ máy kế toán: Cần tổ chức bộ máy kế toán quản trị phù hợp với đặc điểm và yêu cầu cung cấp thông tin quản trị của doanh nghiệp, và phải chú trọng đến tính bảo mật của thông tin kế toán quản trị.
4. Kết luận
Có thể nói trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, đã mang đến nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp song bên cạnh đó cũng không ít các thách thức mới. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp xây lắp nói chung và các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn Thành phố Sơn La nói riêng, muốn tồn tại và phát triển phải có hệ thống thông tin kịp thời, chính xác, phục vụ cho việc điều hành, quản lý và ra các quyết định sản xuất kinh doanh. Với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của ngành xây lắp, công tác quản lý chặt chẽ các yếu tố chi phí nhằm tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây lắp luôn là những yêu cầu cấp thiết. các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Sơn La cần đẩy mạnh ứng dụng kế toán quản trị chi phí trong hệ thống kế toán của đơn vị để tiết kiệm và sử dụng chi phí một cách có hiệu quả, là cơ sở hạ giá thành sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Ths.Lê Thị Thanh Nhàn
Dương Thị Minh Huyền – Nguyễn Thị Phượng – K56B ĐHKT
Hội nghị cán bộ công chức, viên chức năm học 2017 – 2018
Sáng ngày 25/9/2017, dưới sự chủ trì của hai đồng chí Đoàn Thị Thanh Hải – Phó bí thư chi bộ, Phó trưởng khoa Kinh tế và đồng chí Hoàng Xuân Trọng – Chủ tịch công đoàn bộ phận, Phó trưởng khoa Kinh tế đã long trọng tổ chức Hội nghị cán bộ công chức, viên chức năm học 2017 – 2018.
Với mục tiêu tạo ra không khí dân chủ, đoàn kết, quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, chỉ tiêu năm hoc, Hội nghị công chức, viên chức của Khoa Kinh tế đã thực hiện tổng kết và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch năm 2016-2017 ở các tổ bộ môn, các đoàn thể trực thuộc. Qua đó, Hội nghị đã đúc kết những kết quả, kinh nghiệm đạt được trong năm học qua để tiếp tục phát huy các mặt ưu điểm, đồng thời cùng tháo gỡ những khó khăn, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, đồng thời triển khai và trao đổi biện pháp thực hiện kế hoạch năm học 2017-2018.
Tại hội nghị, các đại biểu đã nghe đồng chí Hoàng Xuân Trọng báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2016 – 2017; báo cáo tổng kết năm hoc 2016-2017 và kế hoạch hoạt động công đoàn năm hoc 2017-2018. Báo cáo đã đánh giá đầy đủ, toàn diện những thành tích và tồn tại về các mặt, các hoạt động trong năm hoc 2016-2017. Tiếp đó, đồng chí Đoàn Thị Thanh Hải trình bày kế hoạch hoạt động năm học 2017 – 2018. Báo cáo đã đưa ra những phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể của Khoa Kinh tế trong năm học 2017-2018, trong đó nhấn mạnh một số nhiệm vụ trọng tâm sau: Tập trung nâng cao chất lượng đào tạo; Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học của giảng viên. Tăng cường công tác quản lý người học và cố vấn hoc tập; Đổi mới công tác quản lý và điều hành theo hướng linh hoạt, hiệu quả, thiết thực …
Tiếp theo, Hội nghị đã nghe các tham luận về: Giải pháp điều chỉnh phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng người học; Đề xuất biện pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa hoc của giảng viên; Tham luận về công tác cố vấn hoc tập; Tham luận về công tác quản lý và hỗ trợ lưu hoc sinh Lào.
Sau phần tham luận của các đại biểu đại diện các đơn vị, Đoàn chủ tịch đã trực tiếp giải đáp các thắc mắc, các vấn đề tồn tại trong năm 2017; đồng thời ghi nhận và làm rõ hơn về các ý kiến đóng góp, đề xuất, kiến nghị của các đại biểu về công tác quản lý, các mặt hoạt động của Khoa trong thời gian tới.
Với thời gian làm việc khẩn trương và nghiêm túc, Hội nghị công chức, viên chức Khoa Kinh tế năm học 2017-2018 kết thúc trong không khí đoàn kết, thống nhất và quyết tâm cao của tập thể công chức, viên chức. Nhân dịp năm học mới xin chúc toàn thể công chức, viên chức toàn Khoa luôn hoàn thành tốt các công tác được giao, góp phần đưa Khoa Kinh tế ngày càng vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là Khoa có thương hiệu và uy tín hàng đầu trong ngành và trong khu vực.
Một số hình ảnh Hội nghị
NCS. Ths. Đoàn Thị Thanh Hải trình bày kế hoạch hoạt động năm học 2017 – 2018
Ts. Hoàng Xuân Trọng báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2016 – 2017; báo cáo tổng kết năm hoc 2016-2017 và kế hoạch hoạt động công đoàn năm hoc 2017-2018
NCS. Th.s Vũ Thị Sen – Trưởng bộ môn Kế toán với giải pháp điều chỉnh phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng người học
Ts. Đặng Công Thức – Trưởng bộ môn Kinh tế với đề xuất biện pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa hoc của giảng viên
Đồng chí Lương Thị Thủy với tham luận về công tác cố vấn hoc tập
Th.s Nguyễn Thị Thanh Thủy với tham luận về công tác quản lý và hỗ trợ lưu hoc sinh Lào.
NCS. Th.s Vũ Quang Hưng – Trưởng bộ môn Quản tri king doanh
Hội thảo khoa học quốc gia ” Nâng cao năng lực quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4″
THỰC TRẠNG DU LỊCH LÒNG HỒ THUỶ ĐIỆN THÁC BÀ, HOÀ BÌNH, NA HANG VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CHO DU LỊCH LÒNG HỒ THUỶ ĐIỆN SƠN LA
Tóm tắt
Bài viết đã nghiên cứu đánh giá tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch của 3 lòng hồ thuỷ điện Thác Bà, Hòa Bình và Na Hang. Nghiên cứu cho thấy, du lịch lòng hồ thuỷ điện Hoà Bình đang phát triển tốt nhất, sau đó đến du lịch lòng hồ Na Hang và cuối cùng là du lịch lòng hồ Thác Bà mặc dù đây là lòng hồ được hình thành lâu năm nhất. Nhóm tác giả tiến hành đánh giá chung về hiện trạng du lịch lòng hồ trên núi với 3 ưu điểm và 5 tồn tại hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, bài viết kết luận và rút ra 04 bài học kinh nghiệm để phát triển du lịch bền vững vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La, góp phần giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế xã hội các vùng dân cư vùng lòng hồ thuỷ điện.
Từ khoá: chiến lược marketing địa phương; du lịch bền vững; lòng hồ thuỷ điện Sơn La.
MỞ ĐẦU
Vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La hình thành sau lòng hồ thuỷ điện Thác Bà, Hoà Bình, Na Hang. Để khai thác và phát triển du lịch bền vững tại vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La thì bên cạnh việc tìm hiểu, đánh giá tiềm năng và thực trạng của vùng thì cần thiết phải nghiên cứu bài học kinh nghiệm trong phát triển du lịch đặc trưng vùng lòng hồ tại một số vùng lòng hồ khác có điều kiện tương đồng với Sơn La như: du lịch hồ thuỷ điện Hoà Bình, Thác Bà – Yên Bái, Na Hang – Tuyên Quang. Phương pháp nghiên cứu được nhóm tác giả sử dụng là là tiến hành khảo sát thực địa tại 3 vùng lòng hồ thuỷ điện, phỏng vấn nhà quản lý, người dân, doanh nghiệp kinh doanh du lịch, đồng thời thu thập thông tin dữ liệu thứ cấp của các cơ quan quản lý về thực trạng hoạt động du lịch, cơ sở hạ tầng, nguồn lực phục vụ phát triển du lịch, sự tham gia hoạt động du lịch của chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng.
NỘI DUNG
- Khái quát chung về thuỷ điện Hoà Bình, Thác Bà, Na Hang
* Nhà máy thuỷ điện Thác Bà – Yên Bái
Nhà máy thuỷ điện Thác Bà với công suất 124 MW được xây dựng từ năm 1964 đến năm 1971. Hồ Thác Bà được hình thành khi đập thủy điện Thác Bà hoàn tất năm 1970 làm nghẽn dòng sông Chảy và tạo ra hồ. Diện tích vùng hồ: 23.400 ha, diện tích mặt nước: 19.050 ha, dài: 80 km, mực nước dao động từ 46 m đến 58 m, chứa được 3 đến 3,9 tỉ mét khối nước. Ngoài dòng sông Chảy là nơi cung cấp nước chủ yếu, hồ Thác Bà còn có một hệ thống sông ngòi lớn như: ngòi Hành, ngòi Cát đổ về, làm tăng lượng phù sa lớn và các loài sinh vật phong phú cho hồ. Hồ Thác Bà thuộc hai huyện Lục Yên và Yên Bình (Yên Bái). Hồ Thác Bà là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam, hồ là nguồn cung cấp nước cho nhà máy Nhà máy thủy điện Thác Bà (nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt Nam) thuộc tỉnh Yên Bái. Hồ nằm cách Hà Nội 160 km theo quốc lộ 2 hoặc quốc lộ 32 về phía Tây Bắc.
* Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình
Nhà máy được xây dựng từ năm 1979 – 1994 với 8 tổ máy đạt công suất 1.920 MW. Với chiều dài 70 km, nằm trải rộng trên địa bàn 17 xã ở 5 huyện, thành phố là: huyện Cao Phong, Tân Lạc, Mai Châu, Đà Bắc và thành phố Hoà Bình. Được hình thành sau khi có công trình thuỷ điện Hoà Bình, trên hồ chỗ rộng nhất 1- 2 km, sâu từ 80 – 110 m. Hồ có dung tích trên 9 tỷ m3 nước. Hồ Hòa Bình có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong vùng du lịch trung tâm phía Bắc của đất nước, liền kề với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận.
* Nhà máy thuỷ điện Na Hang – Tuyên Quang
Nhà máy thuỷ điện Na Hang – Tuyên Quang với công suất 342 MW được xây dựng từ năm 2002 đến năm 2007. Sau khi hoàn thành, Hồ thủy điện Tuyên Quang trở thành một vùng non nước hữu tình rộng hơn 8.000 ha mặt nước, với 99 ngọn núi hùng vĩ.
- Tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch tại 3 lòng hồ thuỷ điện
* Du lịch lòng hồ thuỷ điện Thác Bà
Tài nguyên du lịch tự nhiên: Hồ Thác Bà có tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, thảm thực vật phong phú. Trong lòng hồ có hơn 1.300 đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều hang động có giá trị cảnh quan và tâm linh. Không chỉ là thắng cảnh, hồ còn góp phần rất lớn vào việc bảo vệ và cải tạo môi trường làm cho mùa hè nhiệt độ giảm từ 1 đến 2 °C, tăng độ ẩm vào mùa khô lên 20% và lượng mưa từ 1.700 đến 2.000 mm, tạo điều kiện cho thảm thực vật xanh tốt. Các dãy núi đá vôi đã tạo ra một hệ thống hang động rất đẹp trên hồ. Động Thủy Tiên, nằm trong lòng núi đá dài khoảng 100 m với những nhũ đá lấp lánh khi được chiếu sáng tạo ra muôn hình vạn trạng. Động Xuân Long nằm ẩn trong núi đá. Núi Cao Biền là dãy núi lớn và dài nhất của thắng cảnh hồ Thác Bà, có thể đứng trên đỉnh núi phóng tầm mắt ngắm cảnh hồ chìm trong sương với vẻ đẹp lung linh huyền ảo.
Tài nguyên du lịch nhân văn: khu vực làng ven hồ Thác Bà là nơi hội tụ các giá trị về di tích lịch sử, bản làng văn hóa dân tộc thiểu số Tày, Nùng, Mông, Dao, Phù Lá, Cao Lan.., Nhiều lễ hội đặc sắc thường diễn ra như: Lễ hội mừng cơm mới của người Tày tổ chức vào ngày 9 tháng 10 âm lịch khi tiết trời sang thu, mùa thu hoạch lúa nếp đến, mùi thơm lan tỏa khắp bản làng. Trong đêm trăng sáng, lễ hội tưng bừng, trai gái hẹn hò nhau cùng giã cốm, rồi từng cặp nhảy múa với trang phục rất độc đáo. Lễ Tết nhảy của dân tộc Dao với các điệu múa miêu tả cuộc sống của cộng đồng, như cấy lúa, làm nương với hình thức mang đậm nét dân gian. Khu vực hồ thuộc huyện Lục Yên lại có nhiều di tích lịch sử đền Đại Cại, hang Ma mút, chùa São, núi Vua Áo Đen.
* Du lịch lòng hồ thuỷ điện Hoà BìnhHoạt động du lịch: Trên vùng hồ hiện nay đã có 20 tàu chở khách du lịch do tư nhân làm chủ hoạt động thường xuyên, có công ty vận tải đường sông chuyên trở khách cố định theo tuyến. Những ngày mùa đông, trời rét lượng khách du lịch đến đây ít nhưng mỗi tháng cũng có từ 25-20 đoàn khách thăm quan lòng hồ. Còn những ngày mùa hè thì đông hơn. Sau khi đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai đi vào hoạt động thì lượng khách du lịch đến thăm quan giảm đi. Du khách trong nước thì thường đến thăm quan khu vực nhà máy thuỷ điện Thác Bà, đền Thác bà, đền Thác Ông và động Thuỷ Tiên, còn du khách nước ngoài ít đến thăm quan các đền chùa trên hồ mà thường chỉ đến nhà máy thuỷ điện Thác Bà, động Thuỷ Tiên và khu du lịch sinh thái Ngòi Tu, họ thường nghỉ lại ở các làng ven hồ qua đêm. Khu vực mặt đập thuỷ điện dành cho khách thăm quan được tổ chức bài bản, sạch sẽ gồm khu bán vé, khu vệ sinh, khu dịch vụ thương mại và hàng lưu niệm. Tuy nhiên hiện nay, nơi đây chưa có nét chấm phá về văn hoá, cũng như các loại hình dịch vụ đi kèm du lịch đặc trưng vùng, đặc biệt là dịch vụ du lịch còn hạn chế, ngoài ẩm thực, còn thiếu các loại hình giải trí, địa điểm giải trí, thiếu hướng dẫn viên du lịch có trình độ, kinh nghiệm, hạ tầng cơ sở phục vụ du lịch, quảng bá du lịch hồ Thác Bà còn khiêm tốn, không được duy tu bảo dưỡng thường xuyên.
Tài nguyên du lịch tự nhiên: thiên nhiên đa dạng, phong phú với địa hình bị chia cắt bởi nhiều ngòi, khe, suối… Trong hồ có 47 đảo lớn nhỏ, trong đó có 11 đảo đá vôi với diện tích 116 ha và 36 đảo núi đất diện tích 157,5 ha. Phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, hai bên hồ là những cánh rừng núi ngút ngàn, thơ mộng, hấp dẫn du khác phù hợp với các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái, vui chơi giải trí cao cấp, nghỉ dưỡng cuối tuần.
Tài nguyên du lịch nhân văn: Nhiều điểm thăm quan tâm linh, văn hoá, du lịch nổi tiếng như Đền Bờ, động Thác Bờ, vịnh Ngòi Hoa, động Hoa Tiên… Lễ hội Đền Bờ được tổ chức mỗi năm một lần, diễn ra từ mùng 7 tháng giêng và kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch hàng năm. Đây là lễ hội lớn không phải riêng của người Mường Hòa Bình mà còn có sự tham gia của nhiều dân tộc anh em trong và ngoài tỉnh, hàng năm thu hút hàng trăm nghìn lượt khách tới thăm quan và làm lễ. Cách không xa là động Thác Bờ nằm ở sườn núi phía bắc trong dẫy núi Chúa bên bờ hồ Hòa Bình, thuộc xóm Bưng, xã Ngòi Hoa (Tân Lạc). Xung quanh lòng hồ chứa đựng hàng trăm đảo nhỏ nhấp nhô trên mặt nước mệnh mông, trong đó, nhiều đảo đã được đầu tư cải tạo thành các khu du lịch hấp dẫn với những nét đặc trưng riêng như: đảo Dừa, đảo Bè Bạn, đảo Cối Xay Gió… Ngoài vẻ đẹp tự nhiên vùng hồ, du khách còn được thưởng thức những món ăn đặc trưng do chính người dân trên đảo nuôi, trồng và chế biến theo cách thức, gia vị truyền thống riêng của người dân bản địa như: cá hun khói, rau rừng đồ chấm lòng cá, thịt lợn nướng…
Hoạt động du lịch: Tăng trưởng bình quân về số lượt khách đến Hồ Hòa Bình giai đoạn 2010 – 2016 tăng 11%, năm 2016 đạt 403.000 lượt, trong đó khách Quốc tế chiếm 11%, khách nội địa chiếm 89%. Năm 2016 tổng thu từ du lịch của khu du lịch Hồ Hòa Bình đạt 67.700 triệu đồng, trong đó tổng thu từ khách quốc tế đạt 6.782 triệu đồng, tổng thu từ khách nội địa đạt 60.918 triệu đồng. Qua đó, cho thấy khách du lịch trong nước vẫn là nguồn thu chính tại khu du lịch Hồ Hòa Bình. Tính đến hết năm 2016, khu du lịch Hồ Hòa Bình đã có 05 cơ sở lưu trú, trong đó có 03 nhà nghỉ với 24 buồng và 02 cơ sở khác với 15 buồng, chưa có khách sạn. Như vậy có thể thấy, số lượng và chất lượng cơ sở lưu trú tại khu vực này chưa đủ đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, do vậy trong thời gian tới cần chú trọng đầu tư để phù hợp với tiêu chí khu du lịch Quốc gia cũng như xu hướng phát triển của du lịch Hòa Bình. Đến năm 2016, tổng số lao động du lịch tại KDL Hồ Hòa Bình 394 người, trong đó lao động trực tiếp chiếm 81%, lao động gián tiếp chiếm 19%. Hệ thống tàu thuyền chở khách rất nhiều và đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, được tổ chức thành các tổ, sắp xếp chạy theo ca, theo tour tuyến linh hoạt, có một công ty cổ phần đứng ra quản lý bến thuyền. Hiện nay, khu du lịch Hồ Hòa Bình vẫn chưa có ban quản lý riêng, do vậy, công tác tuyên truyền quảng bá thương hiệu du lịch chưa đủ sức mạnh, chưa huy động được sức mạnh xã hội hoá tham gia giới thiệu sản phẩm du lịch địa phương, các đơn vị, cá nhân chưa nhiệt tình, hưởng ứng thực hiện chương trình hành động du lịch. Vấn đề vệ sinh, xử lý rác thải ở bến thuyền lên xuống chưa đảm bảo, mặt nước nhiều rác và chai lọ do du khách vứt xuống là vấn đề cần quan tâm giải quyết triệt để.
* Du lịch lòng hồ thuỷ điện Na Hang
Tài nguyên du lịch tự nhiên: Thiên nhiên đã ban tặng cho Na Hang nhiều tài nguyên quý báu, đặc biệt là tài nguyên rừng. Rừng chiếm 84,62% diện tích tự nhiên toàn huyện, có giá trị về kinh tế, có ý nghĩa quan trọng việc phòng hộ và bảo vệ môi trường sinh thái. Những cánh rừng nguyên sinh của Na Hang có cây nghiến nghìn năm tuổi và loài Voọc mũi hếch được ghi trong Sách đỏ thế giới. Thác nước đổ như mái tóc buông xuống rừng cây đại ngàn, tạo thành bức tranh tuyệt mỹ. Từ đoạn hợp lưu sông giữa Gâm với sông Năng, lại là một vùng sông nước, núi non hùng vĩ, bóng cây cổ thụ của những cánh rừng nguyên sinh đổ xuống mặt nước thật lung linh kỳ vĩ. Những thác Tin Tát, Đén Luông, Đén Lang đầy thơ mộng.
Tài nguyên du lịch nhân văn: Na Hang được biết đến là vùng đất của 12 dân tộc cùng sinh sống, với những điệu hát then, hát lượn của dân tộc Tày, hát sli của dân tộc Nùng, hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu… ngân nga làm say đắm lòng người. Chân núi Pắc Tạ có đền thờ vị thiếp của Tướng quân Trần Nhật Duật. Hang Phia Vài là hang người Việt cổ, nơi phát hiện ra hai di tích mộ táng và một di tích bếp lửa thuộc thời đồ đá trên dưới 10.000 năm.
Hoạt động du lịch: năm 2015 Nà Hang đã thu hút 125.000 lượt du khách, trong đó khách quốc tế 285 lượt người và khách trong nước 124.715 lượt, tăng 18,82% so với năm 2014. Tổng số khách lưu trú tại huyện đạt 25.384 lượt người, nâng doanh thu từ hoạt động lưu trú đạt gần 2,6 tỷ đồng. Bên cạnh việc hình thành một số tour tuyến du lịch đường thuỷ quan trọng như: Nà Hang – Song Long, Nà Hang – Bắc Mê (Hà Giang), Nà Hang – Ba Bể (Bắc Kạn)… việc đưa vào khai thác các tuyến du lịch đường bộ như tham quan Rừng đặc dụng Tát Kẻ – Bản Bung. Các tour du lịch sinh thái trên lòng hồ cũng được hình thành từ 4 năm trở lại đây. Đi du thuyền trên lòng hồ thủy điện Tuyên Quang, du khách sẽ được đắm mình với thiên nhiên mênh mông sông nước, trùng điệp núi rừng, được nghe những câu chuyện kể về sự tích gắn với từng địa danh nơi đây. Cũng nhằm phát huy giá trị văn hóa và tạo sự hấp dẫn thu hút du khách, Ban quản lý du lịch sinh thái Na Hang đang phối hợp với chính quyền các địa phương triển khai xây dựng các điểm du lịch làng văn hóa Nà Tông ở xã Thượng Lâm; Bản Phiêng Bung ở xã Năng Khả; Bản Lục ở xã Đà Vị. Nà Hang đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm tuyên truyền, quảng bá phát triển du lịch: Tổ chức lễ hội Lồng tông tại nhiều địa phương (thị trấn Nà Hang, xã Thượng Lâm), tổ chức thành công Hội chợ Thương mại – Du lịch và Tuần Văn hoá – Du lịch “Hồ trên núi”… Đặc biệt, đây là năm công bố quần thể 10 di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia tại Nà Hang và hũ rượu ngô men lá của Nà Hang được công bố lập kỷ lục hũ rượu ngô lớn nhất Việt Nam. Na Hang hiện có 10 cơ sở lưu trú là nhà nghỉ, khách sạn với gần 200 phòng nghỉ và hơn 300 giường nghỉ. Cùng với việc đầu tư vào xây dựng các cơ sở lưu trú để phục vụ khách du lịch, các doanh nghiệp, hộ làm du lịch còn đầu tư mua 120 tàu, thuyền vừa phục vụ du khách, vừa làm phương tiện vận chuyển người và hàng hóa trong khu vực hồ thủy điện. Có thể nói, nhận thức về du lịch của người dân cũng như các doanh nghiệp trên địa bàn đã có sự thay đổi rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp du lịch trên địa bàn như Công ty du lịch Nga Viên, doanh nghiệp Thắng Linh… đều tập trung vào phát triển các dịch vụ mà du khách cần như dịch vụ ăn uống, tàu thuyền du lịch và các sản phẩm ẩm thực làm quà tặng.
- Đánh giá chung về du lịch của 3 lòng hồ thuỷ điện
* Ưu điểm
Một là, hấp dẫn về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn mang đặc trưng riêng có của du lịch hồ trên núi đáp ứng nhu cầu và xu hướng du lịch sinh thái tự nhiên và du lịch văn hoá cộng đồng. Cảnh quan sinh thái mặt hồ đẹp, xung quanh là núi non, các đảo lớn nhỏ, hang động, suối khoáng nóng, thác nước, gắn với nền văn hoá truyền thống độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số sống ở các bản làng ven hồ.
Hai là, đã có sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư vào hoạt động du lịch. Nhà nước đóng vai trò định hướng phát triển, quy hoạch, tạo cơ chế chính sách, tổ chức các sự kiện lớn và tuyên truyền cho cả vùng; doanh nghiệp và dân cư là những người làm trực tiếp, đầu tư xây dựng sản phẩm và dịch vụ, trong đó doanh nghiệp có quy mô lớn tạo nên những đột phá, còn người dân địa phương rất thân thiện và cung ứng các dịch vụ qui mô nhỏ, dịch vụ homestay, dịch vụ ẩm thực, hướng dẫn, biểu diễn văn nghệ, hàng lưu niệm. Vùng lòng hồ nào có Ban quản lý chuyên trách thì hoạt động du lịch phát triển tốt hơn.
Ba là, cơ sở hạ tầng về đường giao thông, phương tiện vận chuyển, tàu thuyền, cơ sở lưu trú, nhà hàng đã từng bước nâng cao tương đối phát triển đáp ứng nhu cầu cơ bản của du khách; hệ thống thông liên lạc, điện nước đảm bảo; khả năng tiếp cận điểm đến thuận lợi hơn, thời gian di chuyển nhanh hơn do chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông liên tỉnh, liên vùng được quan tâm đầu tư.
* Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Một là, vấn đề an toàn cho du khách khi đi thuyền trên lòng hồ và giao thông thuỷ. Còn nhiều tàu thuyền chưa được trang bị đầy đủ áo phao, phao cứu hộ; ảnh hưởng của mưa gió gây nên những con sóng lớn làm thuyền chòng chành có nguy cơ bị lật thuyền, chưa có những chỉ báo những vùng hồ nguy hiểm, xoáy lớn.
Thứ hai, vệ sinh môi trường mặt hồ, ven hồ và lòng hồ chưa đảm bảo. Người dân và du khách còn vứt rác bừa bãi trên mặt hồ, bến thuyền, tạo nên những lắng đọng lòng hồ, vừa ảnh hưởng đến cảnh quan du lịch vừa làm ô nhiễm môi trường sinh thái tự nhiên. Nguyên nhân là chính quyền địa phương tuyên truyền chưa đủ mạnh, chưa có các qui định và chế tài xử lý những vi phạm của doanh nghiệp, người dân và du khách.
Thứ ba, ảnh hưởng rõ rệt bởi tính thời vụ, khoảng thời gian khai thác du lịch không thực hiện tốt quanh năm. Vào mùa mưa, tàu thuyền đi lại khó khăn do nước lớn, sóng to; mùa khô thì mực nước giảm xuống diện tích lòng hồ bị thu hẹp, cảnh quan thiên nhiên không đẹp. Thời gian du lịch đẹp nhất là từ tháng 10 đến tháng 4 hàng năm.
Thứ tư, tiện nghi dịch vụ điểm đến và chất lượng dịch vụ chưa tốt, còn thiếu thốn những loại hình dịch vụ chất lượng cao đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện đại. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp và người dân kinh doanh nhỏ lẻ, tự phát nên các tiện nghi và dịch vụ được đầu tư với qui mô nhỏ, nguồn nhân lực du lịch đa phần không được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, do vậy khó có thể thu hút khách du lịch quay trở lại nhiều lần.
Thứ năm, sự liên kết giữa Nhà nước – Doanh nghiệp – Cộng đồng dân cư chưa thật sự chặt chẽ và đồng bộ, quy hoạch chính sách của nhà nước chưa được doanh nghiệp và dân cưu địa phương triển khai mạnh mẽ và thực hiện đúng hướng. Nguyên nhân là cấp chính quyền trung gian ở huyện, xã, bản làng còn vướng bận nhiều vấn đề phát triển kinh tế xã hội khác nên việc tập trung chỉ đạo phát triển du lịch còn ít, mặt khác chưa có những nghiên cứu, đánh giá, tổng kết và xây dựng những mô hình du lịch bền vững thành công để nhân rộng cho các vùng du lịch lòng hồ.
- KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Thông qua quá trình khảo sát thực địa tại 3 vùng lòng hồ thuỷ điện cho thấy hoạt động du lịch vùng lòng hồ thuỷ điện Hoà Bình là phát triển tốt nhất với mô hình du lịch có sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân địa phương. Hoạt động du lịch vùng lòng hồ thuỷ điện Thác Bà trong thời gian gần đây có sự giảm sút, một mặt do đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai đã hoàn thành đi vào hoạt động, các du khách đến Lào Cai không qua hồ Thác Bà nữa, mặt khác do định hướng đầu tư phát triển du lịch chưa được triển khai mạnh mẽ. Còn hoạt động du lịch tại vùng lòng hồ thuỷ điện Na Hang – Tuyên Quang đang trên đà phát triển với tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn đặc trưng, đồng thời mô hình du lịch có ban quản lý khu du lịch riêng trực thuộc tỉnh uỷ, có sự tham gia đầu tư của doanh nghiệp quy mô lớn và có sự tham gia của cộng đồng người dân địa phương. Từ đó, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm để phát triển du lịch bền vững vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La như sau:
Thứ nhất, vai trò của cơ quan quản lý chuyên trách về du lịch lòng hồ rất quan trọng. Để du lịch lòng hồ phát triển bền vững đạt được đồng thời các mục tiêu về kinh tế, văn hoá xã hội, môi trường và an ninh thì cần thiết thành lập một Ban quản lý khu du lịch lòng hồ thuỷ điện Sơn La, định kỳ tổ chức các sự kiện nổi bật để thu hút số lượng lớn du khách.
Thứ hai, khai thác các lợi thế của du lịch hồ trên núi thành sản phẩm đặc trưng về du lịch thái và du lịch cộng đồng, tạo sản phẩm đa dạng có nhiều sự lựa chọn cho du khách voà các thời điểm đúng vụ và trái vụ; đảm bảo an toàn cho du khách bằng hệ thống phao và nhân viên cứu hộ, tuyên truyền nâng cao ý thức doanh nghiệp, người dân và du khách về du lịch trách nhiệm với môi trường, không xả rác trên mặt hồ, ven bờ.
Thứ ba, thu hút các nhà đầu tư chiến lược để xây dựng và nâng cao cơ sở hạ tầng, dịch vụ và tiện nghi điểm đến vùng lòng hồ thông qua các dự án kêu gọi đầu tư, kèm theo chính sách khuyến khích đầu tư đặc thù; thu hút các nhà đầu tư vừa và nhỏ trong tỉnh và trong nước, thu hút các nhà đầu tư lớn tập đoàn quốc tế.
Thứ tư, thực hiện tốt liên kết giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư nhằm kích cầu du lịch, đồng thời xây dựng mô hình du lịch bền vững có sự tham gia của các nhà nghiên cứu và các tổ chức du lịch trách nhiệm. Để thực hiện tốt mối liên kết này cần dựa trên cơ sở phân chia hài hoà lợi ích kinh tế, quyền lợi và trách nhiệm với văn hoá xã hội, với môi trường sinh thái tự nhiên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ban Quản lý khu du lịch sinh thái Na Hang (2014, 2015), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác và phương hướng, nhiệm vụ công tác.
- Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Yên Bái, Tổng kết hoạt hoạt động du lịch năm 2014, 2015.
- Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hoà Bình, Báo cáo kết quả hoạt động du lịch năm 2010 đến năm 2016.
- Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1528/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình đến năm 2030.
Người viết: Hoàng Xuân Trọng, Nguyễn Hoàng Yến
Kinh nghiệm quốc tế và bài học phát triển du lịch cộng đồng giảm đói nghèo đối với các bản làng thuộc vùng núi Tây Bắc
- Đặt vấn đề
Phát triển du lịch cộng đồng tại các bản làng đang được sự chú ý quan tâm của rất nhiều địa phương trong nước ta. Bởi lẽ du lịch cộng đồng phát triển tốt sẽ mang lại nguồn thu nhập cho người dân địa phương, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống, có ý nghĩa trong việc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thông mới. Hiện nay, các bản làng thuộc vùng núi Tây Bắc có tỷ lệ các hộ nghèo khá cao so với cả nước. Để khắc phục tình trạng này, một trong những giải pháp có thể thực hiện ngay mà không tốn kém quá nhiều chi phí đó là phát triển du lịch cộng đồng. Vậy làm thế nào để các bản làng xác định được đúng phương hướng phát triển du lịch cộng đồng? Bài báo này rút ra những bài học về phương hướng phát triển thông qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế của những bản làng có đặc điểm giống với các bản làng vùng núi Tây Bắc.
- Nội dung
2.1. Sự phát triển du lịch ở làng Sirubari – Nepal
Làng Sirubari thuộc huyện Syangja, tỉnh Ghandruk, cách Pokhara 25km đường bộ và nằm trên đường cao tốc Siddhartha – là con đường nối những điểm du lịch nổi tiếng khu vực phía Tây Nepal như Pokhara, Lumbini. Với độ cao ở 1.700m, từ đây có thể nhìn thấy một số đỉnh núi thuộc dãy Himalaya như Machhapure, Dhaulagiri và Annapura. Sirubari là làng phát triển du lịch đầu tiên ở Nepal vào năm 1997 và nổi tiếng với những chương trình du lịch cộng đồng. Các chương trình du lịch cộng đồng ở đây có sự hợp tác giữa cộng đồng dân cư và khu vực tư nhân. Với sự chấp thuận của Chính phủ, Ủy ban quản lý và phát triển du lịch làng Sirubari đã được thành lập và liên kết với Công ty du lịch nghỉ dưỡng Nepal (có trụ sở tại Kathmandu) nhằm hỗ trợ làng trong công tác quảng bá, tiếp thị.
Người dân địa phương rất tích cực tham gia du lịch cộng đồng. Hộ gia đình nào muốn tham gia vào chương trình phát triển du lịch cộng đồng tại làng, trước tiên phải dành 2 phòng trong nhà để sửa sang thành phòng lưu trú cho du khách, đồng thời phải xây nhà vệ sinh và cung cấp nước sạch. Do vậy, chỉ cần điều chỉnh một số chi tiết trong nhà là có thể phục vụ nhu cầu nghỉ qua đêm của du khách, trong khi ngôi nhà vẫn giữ nguyên được phong cách truyền thống của người Nepal và chủ nhà vẫn sinh sống ở đó bình thường. Sau đó, người dân cần đăng ký làm thành viên của Ủy ban quản lý và phát triển du lịch làng Sirubari, chấp nhận những quy định và nguyên tắc của Ủy ban này. Công ty du lịch nghỉ dưỡng Nepal chịu trách nhiệm tiếp thị và gửi những đoàn khách du lịch đến làng theo tour nghỉ dưỡng ít nhất 2 đêm. Một nhóm dân làng sẽ đón tiếp khách và hướng dẫn họ tới khu vực trung tâm, cạnh đình làng để sắp xếp chỗ ở. Ủy ban sẽ phân chia khách du lịch về những phòng còn trống. Chủ nhà sẽ cung cấp chỗ ở và 3 bữa ăn mỗi ngày cho du khách. Trên cơ sở thỏa thuận giữa Ủy ban và Công ty, Ủy ban sẽ thu một khoản thuế nhất định cho thời gian lưu trú 2 đêm của khách và sẽ thu thêm tùy vào thời gian lưu trú kéo dài. Ủy ban cũng bố trí người mang vác hành lý cho du khách. Tùy theo thời điểm tham quan, có thể sẽ có lễ đón tiếp khách và chia tay khách, thường được tổ chức thông qua tiệc trà buổi chiều.
Chương trình du lịch nơi đây mang lại cho du khách cơ hội hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng nông thôn thông qua các chương trình văn hóa truyền thống, những tục lệ lâu đời ở Ghandruk. Khách du lịch được thưởng thức cùng chủ nhà những món ăn đặc trưng của người Nepal, tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ vào buổi tối, lên ngọn đồi cao nhất làng để ngắm dãy Himalaya từ phía Bắc; đi quanh làng để tham quan cuộc sống, công việc, môi trường xã hội, văn hóa, đời sống tinh thần, những tục lệ của dân làng… Người dân làng Sirubari đã thể hiện những nguyên tắc đoàn kết trong cộng đồng, tin tưởng nhau, gìn giữ và phát triển văn hóa truyền thống, quản lý tài sản công và tạo công ăn việc làm. Cộng đồng dân cư địa phương có thể vừa tự bảo tồn các di sản văn hóa, giữ gìn quản lý tài sản tự nhiên cũng như tài sản vật chất; vừa có thể phát triển các nguồn lực về tài chính, xã hội và con người.
Sự thành công của mô hình phát triển du lịch cộng đồng ở Sirubari là nhờ các điều kiện và các hành động sau: (1) Duy trì những nét văn hóa truyền thống, bảo vệ môi trường kết hợp với tác động kinh tế tích cực đến địa phương góp phần đem lại sự phát triển du lịch cộng đồng. (2) Sự tuân thủ nghiêm túc các quy định của cộng đồng và chịu trách nhiệm chung về các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường tại địa phương của người dân khi họ đã quyết định tham gia hoạt động du lịch cộng đồng. Cộng đồng dân cư có quyền tự quyết cũng như nhận thức những khiếm khuyết về môi trường, văn hóa để từ đó có thể cải thiện, học hỏi và tạo ra những cơ hội việc làm lâu dài. (3) Áp dụng nhiều cách thức để tạo ra công ăn việc làm, tạo thu nhập để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người dân. Trao quyền tự quyết cho người dân thông qua xây dựng thể chế ở địa phương, tạo ra và quản lý nguồn lực về tài chính, con người, vật chất, xã hội… (4) Tiến hành chặt chẽ, tập trung ngay từ đầu chiến lược xúc tiến, quảng bá phát triển du lịch cộng đồng để mang lại hiệu quả cao.
2.2. Phát triển du lịch ở bản Huay Hee – Thái Lan
Huay Hee là một bản dân tộc miền núi, nằm trên ngọn Doi Pui, thuộc vườn quốc gia Mã Hồng Sơn. Đây là nơi cư trú của các đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Karen – 1 trong 6 dân tộc sống ở miền Bắc Thái Lan. Người dân tại đây mưu sinh bằng canh tác nương rẫy và khai thác sản phẩm từ rừng. Khách du lịch tìm đến đây bởi các phong tục tập quán, lễ hội độc đáo của người Karen ẩn náu bên trong sự đa dạng, đặc sắc của thiên nhiên vườn quốc gia Mã Hồng Sơn. Người Karen thờ lạy hình tượng, tin vào các thế lực siêu nhân như thần đất, thần nước… nhưng lại có đến 99% dân bản Huay Hee theo đạo Thiên Chúa giáo.
Trước đây, khi vườn quốc gia Mã Hồng Sơn mới thành lập, mâu thuẫn giữa cộng đồng dân cư địa phương với Ban quản lý Vườn thường xuyên xảy ra, đặc biệt là sau lần Ban quản lý có ý định di dời toàn bộ dân bản ra khỏi vườn quốc gia. Mặc dù kế hoạch di dời dân không thực hiện được do cộng đồng dân cư bản xứ không đồng ý, nhưng người dân vẫn có một số phản ứng tiêu cực, gây áp lực lên tài nguyên thiên nhiên như đốt phá rừng, săn bắt các động vật quý hiếm… Mặt khác, khi số lượng khách đến bản tham quan ngày càng đông, thì mức độ tác động tới lối sống bản địa và tài nguyên ngày càng tăng. Điều này cũng làm nảy sinh vấn đề giữa bảo tồn và phát triển du lịch. Đứng trước thực trạng đó, các nhà quản lý và các tổ chức phi Chính phủ về bảo tồn thiên nhiên đã hỗ trợ xây dựng mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng ở bản Huay Hee, các bên tham gia gồm: Dự án Responsible Ecological Social Tours (REST), Dự án The Project for Recovery of Life and Culture (PRLC), Vườn Quốc gia Mã Hồng Sơn, Tổng cục Du lịch Thái Lan, Quỹ Hỗ trợ nghiên cứu, Quỹ An ninh dân tộc thiểu số, các Công ty lữ hành. Các tổ chức này đã đầu tư ban đầu về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cho cộng đồng dân cư, tuyên truyền quảng bá tài nguyên và các sản phẩm du lịch của vùng. Cộng đồng địa phương tham gia sản xuất, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ du lịch cho du khách.
Các hoạt động du lịch đã tổ chức thực hiện được: Tổ chức các chương trình du lịch sinh thái: đi bộ xuyên rừng, chinh phục đỉnh Mã Hồng Sơn, tìm hiểu động thực vật, tham quan nơi ươm trồng cây phong lan; Tổ chức các chương trình du lịch văn hóa như: tham quan tìm hiểu cuộc sống cộng đồng, tham quan tìm hiểu kiến trúc nhà sàn cổ, tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng, xem biểu diễn giao lưu văn nghệ; Tổ chức các chương trình du lịch mạo hiểm như: leo núi, thám hiểm; Tổ chức các dịch vụ lưu trú tại nhà dân, cung cấp phương tiện đi lại, hướng dẫn viên. Động cơ du khách quốc tế đến khu vực nổi bật là: Thưởng thức, chiêm ngưỡng cảnh đẹp, vẻ hoang sơ của tài nguyên và môi trường tự nhiên, tìm hiểu nền văn hóa bản địa. Chia sẻ lợi ích: Người cung cấp dịch vụ du lịch được hưởng 80% thu nhập từ hoạt động du lịch, còn lại đóng góp vào quỹ phát triển cộng đồng 5% , đóng góp vào Ban quản lý du lịch bản 15%. Việc phát triển du lịch đã giải quyết được công ăn việc làm cho người dân Karen, góp phần giảm thiểu ảnh hưởng của họ đến tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn được bản sắc văn hóa, tín ngưỡng dân tộc cộng đồng.
Về cơ chế hoạt động của mô hình chịu tác động từ các nhân tố: Quản lý và tổ chức: bao gồm các tổ chức phi Chính phủ và các cơ quan Nhà nước của Thái Lan; Tài nguyên, thị trường khách, cơ chế chính sách; Cộng đồng tham gia phát triển du lịch và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên tại địa phương. Có thể thấy, sự thành công của mô hình phát triển du lịch cộng đồng ở Huay Hee là nhờ các điều kiện và các hành động sau: (1) Có sự hỗ trợ ban đầu về tài chính (từ Chính phủ hoặc các tổ chức phi Chính phủ) và coi trọng công tác đào tạo hướng dẫn cho cộng đồng ngay từ khi triển khai các vấn đề của dự án; (2) Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về du lịch và bảo tồn thông qua tập huấn, báo cáo chuyên đề và tổ chức tham gia học tập cho cộng đồng. (3) Giữ nguyên hiện trạng về đất đai của cộng đồng dân cư, bảo vệ và tôn trọng những phong tục tập quán trong quá trình triển khai dự án; (4) Có sự cam kết với cộng đồng về quyền lợi cũng như chia sẻ lợi ích từ du lịch để đảm bảo lòng tin cho cộng đồng; (5) Tăng quyền lực cho cộng đồng trong quá trình thực hiện các kế hoạch; (6) Các cơ quan quản lý Nhà nước tham gia tích cực vào hoạt động của mô hình du lịch dựa vào cộng đồng.
2.3. Bài học đối với các bản làng du lịch cộng đồng vùng núi Tây Bắc
Với kinh nghiệm phát triển du lịch cộng đồng tại hai bản nêu trên có những đặc điểm tương đồng với các bản làng vùng núi Tây Bắc có khí hậu đặc trưng, có phong cảnh thiên nhiên và địa hình tự nhiên độc đáo, có nét văn hoá truyền thống riêng của các dân tộc thiểu số. Vì vậy, có thể thể rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của phát triển du lịch cộng đồng trong sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương. Để phát triển tốt du lịch cộng đồng cần căn cứ vào tình hình thực tế kinh tế – xã hội của địa phương đề ra được những chủ trương, chính sách hợp lí, huy động các tổ chức, đoàn thể và nhân dân cùng với ngành du lịch làm tốt công tác xã hội hóa trong lĩnh vực du lịch;
Thứ hai, thực hiện tốt công tác tuyên truyền về nâng cao nhận thức cho cộng đồng về phát triển du lịch; Ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ bản sắc dân tộc của cộng đồng dân cư tại điểm đến. Qua đó, thể hiện rõ vai trò tích cực của cộng đồng tại các điểm du lịch trên địa bàn trong quá trình tổ chức thực hiện phát triển du lịch cộng đồng;
Thứ ba, trong quá trình xây dựng và phát triển du lịch cần tận dụng tối đa thế mạnh của tiềm năng du lịch bao gồm nguồn tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn của tỉnh để phục vụ cho việc phát triển du lịch. Bảo tồn và phát huy hiệu quả các yếu tố truyền thống văn hóa của các dân tộc cư trú trên địa bàn tỉnh để tạo ra sự khác biệt về sản phẩm du lịch từ đó nâng cao sức mạnh cạnh tranh trong việc thu hút khách du lịch so với những điểm du lịch khác;
Thứ tư, đảm bảo sự công bằng trong việc phân chia lợi ích cho cộng đồng, tận dụng nguồn nhân lực lao động và lợi thế của dân cư địa phương, giúp cho người dân địa phương thấy rõ vị trí và trách nhiệm của mình trong việc phát triển du lịch cộng đồng.
Thứ năm, tăng cường quảng bá, tuyên truyền về hình ảnh du lịch cộng đồng độc đáo của các bản làng qua nhiều kênh thông tin để thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế.
- Kết luận
Sự hợp tác công tư giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển du lịch cộng đồng đối với mỗi địa phương trên toàn thế giới và Việt Nam, trong đó có khu vực Tây Bắc. Chính quyền đóng địa phương đóng vai trò định hướng, tạo môi trường cho du lịch cộng đồng phát triển. Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, người dân đóng vai trò là người thực hiện những hoạt động du lịch cụ thể. Các thành phần tham gia vào du lịch cộng đồng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng chia sẻ lợi ích và cùng có trách nhiệm giữa gìn tài nguyên du lịch và những nét văn hoá truyền thống, chung tay xây dựng và phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững, góp phần giúp địa phương xoá đói, giảm nghèo và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội./.
Người viết: Đỗ Thị Hằng, Hoàng Xuân Trọng
TB: Thư mời viết bài hội thảo Quốc gia “Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp”
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ DU LỊCH SINH THÁI Ở SƠN LA
Tóm tắt
Vùng Tây Bắc có vị trí quan trọng trong cả nước, được biết đến với sự nổi danh về lịch sử, tự nhiên và văn hoá dân gian đặc sắc. Tây Bắc có “Sáng ngàn năm lịch sử Điện Biên”, “Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ/ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát“, có vẻ đẹp tự nhiên “Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/ Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng”, những dãy núi cao tạo nên cảnh quan hùng vĩ như dãy núi Hoàng Liên Sơn, đỉnh Fansipan, Sa Pa – thành phố trong sương, ruộng bậc thang Mù Cang Chải, Cao Nguyên Mộc Châu xanh mát… làm cho con người ai đã đến là mến, đã đi là nhớ “Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Tây Bắc với 33 dân tộc anh em đã tạo nên một vùng đậm đặc văn hoá của những dân tộc, nổi bật như dân tộc Thái, H’Mông… Đây là những tài nguyên vô giá để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái gắn với bảo vệ môi trường, văn hoá và giảm nghèo. Giữ gìn lịch sử, văn hoá, tự nhiên cho Tây Bắc là giữ sự trong lành cho vùng hạ lưu sông Đà, thủ đô Hà Nội và vùng châu thổ Sông Hồng.
Sơn La hội tụ đầy đủ về các mặt lịch sử, tự nhiên và văn hoá của vùng Tây Bắc. Sơn La được ví như cái tâm quạt nối với các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình để hình thành một vòng cung trong hành trình du lịch qua miền Tây Bắc, không những thế mà còn có vị trí thuận lợi kết nối du lịch với 8 tỉnh bắc Lào, vừa là điểm đến vừa là điểm dừng chân trong vùng du lịch. Đến với Sơn La không chỉ đến nhà tù Sơn La nổi tiếng thời Pháp thuộc, với những điệu múa xoè, với thuỷ điện Sơn La lớn nhất Đông Nam Á, cầu Pá Uôn cao nhất Việt Nam, cao nguyên Mộc Châu, mà còn đến với những cảnh quan tự nhiên hấp dẫn như khu bảo tồn thiên nhiên, rừng đặc dụng, hệ thống hang động kỳ thú, thác nước hùng vĩ, các hồ thuỷ điện và thung lũng mầu mỡ, các mỏ nước khoáng nóng… Đây là những nguồn tài nguyên du lịch sinh thái có giá trị đặc biệt quan trọng của tỉnh Sơn La.
Qua nghiên cứu, bài viết làm rõ tiềm năng và thực trạng, những giá trị đặc trưng của du lịch sinh thái ở Sơn La trong liên kết tạo chuỗi giá trị du lịch cho vùng Tây Bắc. Các sản phẩm du lịch sinh thái có thể phát triển thành thương hiệu gắn với rừng đặc dụng Xuân Nha – Mộc Châu, rừng Pa Cốp – Vân Hồ, rừng Noong Cốp – Phù Yên, sinh thái mặt nước với nhiều đảo lớn nhỏ ở lòng hồ thuỷ điện Sơn La… Bài viết cũng đề xuất một số giải pháp phát triển sản phẩm du lịch sinh thái đặc thù ở Sơn La, tour du lịch liên kết vùng, sự phối hợp giữa Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư địa phương nhằm phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững.
- Tiềm năng du lịch sinh thái ở Sơn La
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Sơn La có tiềm năng rất lớn cho kinh tế văn hoá xã hội, trong đó có tiềm năng về du lịch sinh thái (DLST). Mặc dù có nhiều tài nguyên cho loại hình DLST nhưng Sơn La đã xác định tập trung đầu tư phát triển DLST tại 02 khu du lịch (DL) có những lợi thế và điều kiện thuận lợi nhất là khu DL quốc gia Mộc Châu và khu DL vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La.
1.1. Khu du lịch quốc gia Mộc Châu
Mộc Châu đã trở thành một thương hiệu gắn với hình ảnh một cao nguyên với khung cảnh vừa hùng vĩ, vừa nên thơ, say đắm lòng người với những đồi chè, đồng cỏ xanh ngát rộng quá tầm mắt, những vườn mận hoa trắng, những ngọn núi hùng vĩ, bốn mùa mây phủ, những bản làng ẩn hiện trong sương sớm. Ngày 12/11/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 2050/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Mộc Châu, tỉnh Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Điều này là minh chứng, khẳng định về những giá trị đặc biệt ở tầm quốc gia của Mộc Châu từ góc độ DL.
Về vị trí địa lý: Mộc Châu là cửa ngõ quan trọng kết nối Sơn La và các tỉnh vùng Tây Bắc với Hà Nội và khu vực đồng bằng sông Hồng trên tuyến giao thông huyết mạch Quốc lộ 6, đường thủy trên sông Đà, đồng thời có khả năng kết nối với các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng thông qua cửa khẩu Lóng Sập. So với các khu vực có điều kiện tương đồng như Sa Pa, Đà Lạt… vùng Mộc Châu là khu vực gần Hà Nội nhất.
Về khí hậu: Vùng Mộc Châu nằm ở độ cao trung bình hơn 1.000 m cùng với lượng mưa tương đối lớn (hơn 1.500 mm/năm) lại nằm giữa sông Đà ở phía Đông Bắc và sông Mã ở phía Tây Nam có tác dụng như hai hệ thống điều hòa không khí tự nhiên làm cho nhiệt độ trung bình hàng năm của Mộc Châu là 18,5 độ C. Đây là vùng có khí hậu rất lý tưởng với nhiệt độ trung bình thấp hơn so với các tỉnh lân cận và vùng Trung du miền núi Bắc Bộ để phát triển DL nghỉ dưỡng. Khí hậu là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng nhất trong việc xây dựng các khu nghỉ dưỡng. Ở Việt Nam các khu vực có điều kiện khí hậu ôn hòa, mát mẻ như Sa Pa, Đà Lạt, Tam Đảo, Bà Nà, Ba Vì… đều được lựa chọn để phát triển thành các khu nghỉ dưỡng nổi tiếng.
Về tài nguyên rừng: Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha có vị trí tại xã Chiềng Xuân, Tân Xuân, Xuân Nha huyện Vân Hồ và xã Chiềng Sơn huyện Mộc Châu, diện tích 18.267,5 ha. Cách thị trấn Mộc Châu khoảng 40 km về phía Nam, nơi đây có nhiều rừng nguyên sinh và nhiều thú quý hiếm như hổ, gấu… là điều kiện thuận lợi cho phát triển DLST. Khu rừng Pa Cốp nằm trên địa bàn xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ là khu du lịch sinh thái khai thác các tiềm năng du lịch sinh thái của khu vực. Khu rừng thông Bản Áng thuộc xã Đông Sang huyện Mộc Châu, có diện tích 43 ha, là khu đồi thông già có quan cảnh đẹp trên những đồi bát úp thấp. Nơi đây rất gần thị trấn Mộc Châu, đường giao thông thuận tiện nên rất thích hợp cho loại hình DLST kết hợp cắm trại, picnic.
Về tài nguyên hệ sinh thái nông nghiệp: nổi bật là các đồi chè, vườn cây ăn quả ôn đới và hoa mận hoa cải. Hình ảnh về những đồi chè xanh bát ngát ở Mộc Châu đã trở nên quen thuộc với khách DL trong nước. Chè là loại cây đặc trưng của cao nguyên Mộc Châu. Không chỉ là một loại cây trồng đặc sản, Chè còn là sự kết tinh của truyền thống văn hóa nông nghiệp ở Mộc Châu và được coi là một trong những đặc sản quý nhất của cao nguyên Mộc Châu tạo thành không gian cảnh quan sinh thái lấy chủ đề là cảnh quan đồi chè, ngắm cảnh thưởng thức chè, thể nghiệm nét đẹp của phong cảnh tự nhiên và nhân tạo. Khu vườn cây ăn quả ôn đới: Nổi bật là thung lũng 100 ha mận hậu, khu vực Nà Ka, Tiểu khu Pa Khen 1, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu. Du khách có thể tham quan vườn quả, trải nghiệm thu hái quả chín, lao động chăm sóc vườn quả. Các đồi hoa cải, hoa mận, đồi cỏ có thể được quy hoạch theo hình thức công viên hoa chuyên đề phục vụ nhu cầu thăm quan ngắm cảnh, chụp ảnh của du khách.
Ngoài ra, với tài nguyên dòng Sông Đà, từ Mộc Châu xuống thẳng cảng sông Vạn Yên, nơi xuất phát tuyến DL sông Đà, đi du thuyền khách DL được tham quan nhiều cảnh đẹp trên tuyến này, tuyến này có thể kéo dài đến thuỷ điện Sơn La hoặc xuôi xuống thủy điện Hoà Bình. Hoặc du khách có thể xuất phát từ tuyến DL lòng hồ thuỷ điện Hoà Bình lên Mộc Châu theo tuyến đường thuỷ này.
Như vậy, với vị trí địa lý thuận lợi gần thủ đô Hà Nội, khí hậu mát mẻ được ví như “Đà Lạt” của miền Bắc, tài nguyên rừng nguyên sinh đa dạng về thực vật và động vật, hệ sinh thái nông nghiệp đặc trưng, khu DL quốc gia Mộc Châu rất thuận lợi phát triển mạnh loại hình DLST kết hợp nghỉ dưỡng, thể theo đi bộ, khám phá rừng nguyên sinh, trải nghiệm nông nghiệp hái chè, chế biến chè, thưởng thức hương vị chè, thăm quan, tìm hiểu quy trình sản xuất chè; chăm sóc cây ăn quả và hái quả.
1.2. Khu du lịch vùng lòng hồ Thuỷ điện Sơn La
Vùng lòng hồ Sơn La được hình thành bởi công trình thủy điện Sơn La, hiện đang là thuỷ điện có công suất 2.400 MW lớn nhất Đông Nam Á. Hồ có chiều dài là 175 km từ thị trấn Ít Ong – Mường La – Sơn La đến Mường Lay – Điện Biên, chiều rộng nhất khoảng 1,5 km, diện tích hồ chứa 224 km2. Tại địa phận tỉnh Sơn La, bắt đầu từ bản Pênh – thượng lưu đập thủy điện Sơn La thuộc địa phận xã Ít Ong huyện Mường La đến hết huyện Quỳnh Nhai có chiều dài 88,5 km đi qua địa phận 15 xã và 3 huyện (Mường La, Thuận Châu, Quỳnh Nhai).
Bên cạnh là nguồn tài nguyên nước quý giá cho cả quốc gia, hồ Sơn La còn trở thành tài nguyên DL tự nhiên mới có giá trị rất lớn. Ngoài các giá trị về cảnh quan, sinh thái của mặt nước, các đảo nhỏ như “Hạ Long của Tây Bắc” hồ Sơn La còn là nơi có môi trường trong lành và cung cấp nguồn lợi thủy sản cho dân sinh và DL. Địa hình khu vực khá đặc biệt với các dãy núi cao, sông suối,… với địa hình Karst phổ biến tạo nên nhiều cảnh quan hấp dẫn với các hang động tự nhiên đẹp có giá trị thu hút khách du lịch; là cơ sở để hình thành và phát triển du lịch sinh thái tham quan kết hợp du lịch thể thao mạo hiểm như leo núi, thể thao dưới nước là đặc trưng riêng của khu vực Vùng lòng hồ thủy điện Sơn La cần được phát huy, tạo ra sản phẩm DLST khác biệt so với điểm du lịch lân cận như Mù Cang Chải, Sapa, Điện Biên.
Hệ sinh thái tự nhiên phong phú: Khu vực huyện Mường La và huyện Quỳnh Nhai có diện tích rừng khá lớn với một quần thể sinh học đa dạng: Các loài thực vật quý hiếm như nghiến, lát, tre, trúc, cây dược liệu,… hệ động vật có các loài linh trưởng, các loài bò sát như trăn, rắn và hàng nghìn loài côn trùng, tập trung khu bảo tồn thiên nhiên Mường La. Với hệ sinh thái đa dạng có giá trị phục vụ phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, lòng hồ thủy điện có các loài thủy sinh phong phú, với hàng trăm loài cá sinh sống như cá chiên, lăng, chép, nheo, tôm,… có giá trị về kinh tế, đồng thời tạo giá trị ẩm thực địa phương thu hút du khách.
Cảnh quan đặc trưng: Cảnh quan lòng hồ thủy điện với mặt nước mênh mông trong và xanh, cảnh quan thiên nhiên với những cánh rừng, dãy núi đá vôi sừng sững cao ngất hai bên bờ, in bóng xuống mặt hồ tạo nên cảnh quan hùng vĩ, bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ vùng Tây Bắc. Nổi bật là cảnh quan lòng hồ khu vực huyện Quỳnh Nhai nằm trải dài trên địa phận các xã từ thị trấn Quỳnh Nhai sang tiếp giáp tỉnh Điện Biên. Cảnh quan lòng hồ có tiềm năng lớn, khai thác tạo sản phẩm du lịch đặc trưng khác với các khu du lịch khác: Du lịch tham quan, du lịch sinh thái lòng hồ,… Cảnh quan núi cao với các cánh rừng nơi có những bản làng dân tộc còn bảo tồn được nhiều giá trị truyền thống. Tạo nên vùng cảnh quan đặc sắc, nguyên sơ, yên ả của vùng núi, là một trong những nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt, tạo các sản phẩm du lịch đặc trưng. Ngoài ra, cảnh quan khu vực còn đặc biệt bởi có các đảo, bán đảo nhỏ liên tiếp nối liền nhau trên mặt nước, tạo ra cảnh quan sinh động, các hang động tự nhiên đa dạng hình thù dưới các dãy núi đá vôi hai bên bờ lòng hồ, tạo nên nét riêng cho du lịch Vùng lòng hồ thủy điện Sơn La.
Vị trí địa lý và không gian DL: Khu DL vùng lòng hồ thủy điện Sơn La phân thành 2 không gian chính. Không gian du lịch huyện Mường La nằm gần thành phố Sơn La, tiếp cận thuận lợi với quốc lộ 32 (kết nối các điểm du lịch: Mù Cang Chải, Thác Bà) và khu du lịch Mộc Châu. Không gian du lịch huyện Quỳnh Nhai có tiềm năng du lịch đặc trưng là cảnh quan mặt nước, đồi núi, rừng cây và đặc biệt giá trị văn hóa dân tộc Thái nổi trội, tiếp cận thuận lợi với tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai (theo quốc lộ 279, quốc lộ 6B) kết nối các điểm du lịch nổi tiếng: Sapa, Điện Biên; tiếp cận với thành phố Sơn La (qua quốc lộ 6, quốc lộ 6B). Hai không gian du lịch kết nối với nhau bằng tuyến đường thủy theo lòng hồ thủy điện, với 2 trung tâm dừng chân, đón tiếp khách du lịch tại thị trấn Ít Ong và thị trấn Quỳnh Nhai.
Từ các tiềm năng trên, khu DL lòng hồ thuỷ điện Sơn La có thể phát triển loại hình DLST gắn với tham quan lòng hồ thủy điện: Tham quan, ngắm cảnh quan thiên nhiên mặt nước, cảnh quan đồi núi, rừng hai bên hồ, với các đảo, bán đảo trên mặt nước bằng du thuyền, với các điểm dừng chân trên tuyến tại các bến thuyền du lịch: Mường Trai, Nậm Giôn, Bản Dáng, Chiềng Bằng, Pá Uôn, Mường Chiên và kết nối tham quan lòng hồ thủy điện Hòa Bình, thủy điện Lai Châu, khu du lịch quốc gia Mộc Châu và thành phố Sơn La; Tham quan các khu nuôi trồng thủy sản trên lòng hồ, kết hợp thưởng thức ẩm thực, tham gia hoạt động trải nghiệm: Đánh bắt cá, chế biến các món ăn; Tham gia các hoạt động trên hồ: Câu cá, chèo thuyền; Thưởng thức ẩm thực địa phương trong các nhà hàng nổi trên lòng hồ; Tổ chức biểu diễn nghệ thuật các dân tộc phục vụ du khách sau khi thưởng thức ẩm thực, tạo thành tour du lịch hấp dẫn du khách; Tổ chức hoạt động cắm trại, dã ngoại cho du khách trên các đảo, bán đảo nhỏ trên mặt nước; Các tour du lịch nghiên cứu sinh thái tại khu Bảo tồn thiên nhiên Mường La, tại các khu vực rừng núi, tại các khu vực sông suối, lòng hồ; Tại các điểm du lịch, du khách được trải nghiệm bằng chính sự quan sát của mình và bằng diễn giải môi trường bởi các hướng dẫn viên có trình độ về các hệ sinh thái, đa dạng sinh học và giá trị cảnh quan đặc sắc.
1.3. Các tài nguyên du lịch sinh thái khác
Bên cạnh các tài nguyên DLST tại 02 khu du lịch trên, Sơn La còn có khu bảo tồn thiên nhiên Tà Xùa – Bắc Yên, rừng đặc dụng Sốp Cộp, rừng thông Noong Cốp – Phù Yên. Các khu rừng này có sự đa dạng và phong phú về các hệ sinh thái với tính đa dạng sinh học tương đối cao. Đây là những tài nguyên cho DLST gắn với nghiên cứu, khám phá động thực vật quý hiếm và nghỉ dưỡng trong môi trường sinh thái trong lành.
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Tà Xùa nằm trên địa bàn 4 xã; Tà Xùa, Háng Đồng (huyện Bắc Yên), và Mường Thải, Suối Tọ (huyện Phù Yên), tỉnh Sơn La với tổng diện tích là 17.650 ha, nằm ở sườn Đông Nam của dãy Hoàng Liên Sơn, địa hình cao dốc, mức độ chia cắt mạnh, có nhiều đỉnh cao trên 2.000 m dọc theo dãy Phu Sa Phìn, cao nhất là đỉnh Phu Chiêm Sơn, có độ cao 2.765 m, là khu hệ sinh thái rừng kín thường xanh núi cao vùng Tây Bắc, có giá trị bảo tồn nguồn gen và nghiên cứu khoa học, bởi còn lưu trữ được nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Rừng thông Noong Cốp – Phù Yên nằm ở độ cao 1.023 mét so với mặt nước biển, nhiệt độ quanh năm ở ngưỡng 21-22 độ C, có diện tích hơn 1.300 ha, với hàng vạn cây thông trên 30 năm tuổi, đây được coi là lá phổi xanh và là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn của huyện Phù Yên.
Khu rừng đặc dụng Sốp Cộp có tổng diện tích tự nhiên 18.709 ha. Đây là khu vực bao gồm nhiều dãy núi cao, dốc, địa hình chia cắt phức tạp, hiểm trở đã tạo ra các hệ sinh thái vô cùng phong phú và độc đáo. Khu bảo tồn có tính đa dạng sinh học cao về thảm thực vật, khu hệ thực vật và động vật. Ở đây còn bảo tồn được mẫu rừng tương đối nguyên sinh là kiểu rừng kín thường xanh á nhiệt đới ẩm tiêu biểu cho vùng Tây Bắc nước ta. Đã thống kê được 640 loài thực vật bậc cao có mạch, 362 loài động vật có xương sống ở cạn. Trong số đó, có 37 loài thực vật, 48 loài động quý hiếm đang bị đe doạ ở mức quốc gia và toàn cầu. Đặc biệt, tại đây đã phát hiện 01 loài ếch lưỡng cư hoàn toàn mới đã công bố trên tạp chí quốc tế, là đóng góp mới cho khoa học thế giới qua nghiên cứu của TS. Phạm Văn Anh – giảng viên trường Đại học Tây Bắc.
- Sự cần thiết phát triển du lịch sinh thái ở Sơn La
Để phát triển du lịch bền vững, mỗi địa phương cần phải phát triển hài hoà giữa 4 lĩnh vực kinh tế, tài nguyên môi trường, văn hoá xã hội và chính trị. Sơn La cũng như Tây Bắc chỉ phát triển DLST thì mới giải quyết được bài toán phát triển bền vững bởi vì những lý do sau đây.
Thứ nhất, phát triển DLST giúp người dân hiểu biết giá trị của sinh thái Tây Bắc làm họ tham gia bảo vệ tài nguyên và môi trường. Khi thu hút được du khách đến tham gia loại hình DLST và khi du khách ngưỡng mộ những cảnh quan thiên nhiên, khí hậu, giá trị sinh thái thì người dân sẽ tự hào về nơi mình sinh sống. Từ đó họ sẽ nâng cao nhận thức và chủ động bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, tài nguyên sông nước.
Thứ hai, phát triển DLST giúp kinh tế người dân phát triển, hạn chế việc phá rừng, đốt rừng làm nương rẫy. Hoạt động DLST dựa vào cộng đồng mang lại nguồn thu nhập cho người dân bản địa từ việc họ tham gia làm hướng dẫn viên, người dẫn đường, hoặc cung ứng các dịch vụ lưu trú, ẩm thực, sản xuất và bán hàng lưu niệm cho du khách. Khi DLST phát triển mang lại lợi ích kinh tế đảm bảo đời sống thì người dân sẽ hạn chế việc phá rừng huỷ hoại môi trường sinh thái và sự đa dạng sinh học.
Thứ ba, phát triển DLST sẽ giúp bảo vệ các lòng hồ thuỷ điện để nước sạch, không gây lắng đọng lòng hồ, nuôi cá theo qui hoạch. Với sự tham gia vào cuộc của Nhà nước, nhà khoa học, nhà kinh doanh và người dân trong phát triển DLST sẽ tạo nên một cơ chế phối hợp giữa các bên, những qui định được làm và không được làm trong hoạt động DLST nhằm bảo vệ môi trường và nguồn nước lòng hồ thuỷ điện Sơn La.
Thứ tư, phát triển DLST để gắn kết cộng đồng, liên kết vùng, làm người dân Sơn La Tây Bắc đoàn kết, gắn kết với cộng đồng dân cư cả nước, giao lưu quốc tế. Lợi ích của DLST góp phần phát huy sức mạnh đoàn kết của cộng đồng dân cư địa phương trong khai thác, phát triển DL vì lợi ích chung. Mặt khác, du khách đến từ các nơi khác của đất nước và du khách quốc tế giúp người dân tăng cường giao lưu, học hỏi để phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, bảo vệ môi trường tại chính địa phương nơi mình đang sinh sống.
- Thực trạng và thách thức du lịch sinh thái ở Sơn La
3.1. Một số kết quả của hoạt động du lịch chung
Những năm qua, ngành DL Sơn La đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường và giữ vững an ninh, chính trị tại tỉnh Sơn La.
Trong giai đoạn 2008 – 2015, lượng khách DL đến Sơn La tăng liên tục, từ 335 nghìn lượt (năm 2008) lên đến gần 1,6 triệu lượt khách (năm 2015). Cuối năm 2008, thị xã Sơn La trở thành thành phố Sơn La đã góp phần làm tăng lượng khách lên gần gấp đôi vào năm 2009 (hình 1).
Hình 1: Số lượt khách đến Sơn La năm 2008 – 2015 (ĐVT: nghìn người)
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và DL tỉnh Sơn La)
Từ năm 2011 đến 2014, lượng khách đi trong ngày không lưu trú tại Sơn La tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt là lượng khách năm 2012 tăng gấp đôi năm 2011. Đó là do hiệu ứng của chương trình “Qua miền Tây Bắc” kết hợp ngày hội văn hoá các dân tộc được tổ chức tại Mộc Châu vào năm 2011. Khách DL theo cung đường Tây Bắc chỉ đi qua Sơn La mà không lưu lại qua đêm.
Mặc dù lượng khách từ năm 2008 đến năm 2015 tăng gấp 5 lần nhưng không ổn định: năm 2011 lượt khách giảm so với năm 2010; lượng khách chững lại, tăng chậm trong các năm 2012 – 2013 và năm 2014 – 2015.
Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng lượt khách giai đoạn 2008 – 2015 là 23,9%. Có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng mỗi năm không đồng đều, thể hiện sự chưa bền vững trong tăng trưởng lượng khách, có năm thì rất cao (66,9% năm 2012), có năm thì rất thấp (3,2% năm 2013; 4,2% năm 2015).
Về cơ cấu khách, khách quốc tế đến Sơn La đạt thấp hơn rất nhiều so với khách nội địa. Tỷ lệ 7,8% năm 2008; tỷ lệ 2,3% năm 2015. Trong khi khách nội địa tăng khá nhanh thì khách quốc tế tăng chậm và tỷ lệ % trong tổng cơ cấu khách giảm xuống.
Khách quốc tế chiếm tỷ lệ thấp trong tổng lượt khách và tăng không ổn định qua các năm. Từ năm 2008 đến năm 2013, tăng từ 26 nghìn lượt lên 43 nghìn lượt, sau đó giảm xuống 39 nghìn lượt năm 2014 và 37 nghìn lượt vào năm 2015. Đó là do hành vi DL của khách quốc tế có những đặc trưng như họ tin và hành động theo thông tin truyền miệng và theo sổ tay DL được biên tập lại từ trải nghiệm của những người đã từng đến. Vì vậy những khách hàng tiềm năng sẽ không đến những nơi mà SP DL bị những người đi trước đánh giá là không hấp dẫn và thú vị.
Mức chi tiêu bình quân/ ngày năm 2015 như sau: Khách quốc tế có lưu trú khoảng 45 USD (945.000 đồng) và khách nội địa khoảng 420.000 đồng. Mức chi tiêu trên thấp hơn mặt bằng chung cả nước (400.000 – 600.000 đồng và 75 USD). Khách quốc tế trong ngày chi 6 USD và khoảng 105.000 đồng với khách nội địa.
Thời gian lưu trú bình quân của khách DL tăng dần, khách quốc tế năm 2008 là 1,1 ngày, năm 2014 là 1,78 ngày; khách nội địa tương ứng từ 1 ngày lên 1,62 ngày. Tuy nhiên, thời gian lưu trú như vậy còn rất ngắn so với những địa phương có hoạt động DL phát triển với thời gian lưu trú từ 2,5-3 ngày.
* Doanh thu DL Sơn La và cơ cấu chi tiêu
Doanh thu DL bao gồm doanh thu về lưu trú, lữ hành và dịch vụ DL khác. Doanh thu DL năm 2008 đạt 169 tỷ đồng tăng lên đến 645 tỷ đồng năm 2015 (hơn gấp 3 lần). Trong đó, ấn tượng là từ năm 2011 đến năm 2012, doanh thu tăng gấp 2,5 lần. Tuy nhiên, doanh thu từ năm 2013 đến 2015 tăng chậm (hình 2).
Hình 2: Doanh thu DL Sơn La giai đoạn 2008 – 2015 (ĐVT: tỷ đồng)
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và DL tỉnh Sơn La)
Trong giai đoạn 2008-2015, lượt khách DL tăng 5 lần, doanh thu tăng 3 lần, cho thấy doanh thu DL tăng không tương xứng với lượt khách. Nghĩa là DL Sơn La đang bỏ lỡ cơ hội tăng doanh thu từ du khách đã đến Sơn La.
Trong cơ cấu doanh thu thì doanh thu lưu trú và ăn uống chiếm tỷ lệ lớn, còn doanh thu từ dịch vụ khác chiếm tỷ lệ rất thấp. Thu từ ăn uống chiếm khoảng 50%, từ dịch vụ lưu trú chiếm khoảng 42%, từ các dịch vụ khác chiếm khoảng 8%. Các năm gần đây có sự thay đổi nhưng không đáng kể. Đó là do Sơn La chưa tạo được những hàng hoá và dịch vụ đủ sức lôi cuốn và hấp dẫn khách DL mua sắm và tiêu dùng.
Đóng góp từ doanh thu DL so với GDP toàn tỉnh năm 2014 chỉ đạt khoảng 1%. Mặc dù doanh thu DL tăng lên từng năm nhưng đóng góp vào GDP toàn tỉnh còn rất thấp so với 10% của DL toàn cầu và chưa bằng một nửa so với 2,38% (mục tiêu đề ra của DL Sơn La vào năm 2020).
Những số liệu nêu trên cho thấy mặc dù số lượt khách, doanh thu DL, số ngày lưu trú, chi tiêu DL có tăng lên theo mỗi năm nhưng đây chỉ là những biểu hiện về mặt số lượng, còn về mặt cơ cấu, chất lượng thì chưa thể hiện được tính ổn định và bền vững, có những thời điểm tăng trưởng “nóng” (66,9% vào năm 2012).
* Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ DL
Cơ sở lưu trú: Theo quá trình phát triển, hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ cũng được nâng cấp, xây mới. Tốc độ tăng trưởng trung bình về buồng lưu trú giai đoạn 2008 – 2015 đạt 5%/năm. Tính đến 20/12/2015, trên địa bàn tỉnh Sơn La có 150 cơ sở lưu trú DL với 24 Khách sạn (trong đó có: 01 khách sạn 3 sao; 12 khách sạn 2 sao và 11 khách sạn 1 sao); 118 Nhà nghỉ DL và 08 Homestay. Trong đó có gần 1.900 buồng, với 3.350 giường. Đến giữa năm 2016, khách sạn Mường Thanh tại Mộc Châu với 170 phòng nghỉ và các dịch vụ tiện ích đạt tiêu chuẩn 4 sao.
Tuy nhiên số lượng còn thấp so với mục tiêu là 4.600 buồng vào năm 2020. Số buồng có sự tăng lên theo từng năm nhưng công suất sử dụng buồng chưa khai thác tối đa, trung bình khoảng 63% (bảng 1).
Bảng 1: Cơ sở lưu trú DL tại Sơn La giai đoạn 2008 -2015
Chỉ tiêu | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | Năm 2014 | Năm 2015 |
Cơ sở lưu trú | 90 | 97 | 103 | 108 | 110 | 113 | 135 | 150 |
Buồng | 1.370 | 1.380 | 1.430 | 1.505 | 1.572 | 1.600 | 1.800 | 1900 |
Công suất buồng (%) | 53,1 | 53,5 | 60 | 58 | 61 | 65 | 62 | 63 |
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và DL tỉnh Sơn La)
Đó là do đặc thù của ngành DL phụ thuộc vào yếu tố thời vụ và điều kiện tự nhiên, khí hậu. Mặt khác, DL Sơn La chưa có những chương trình kích cầu DL, điều tiết cầu DL trong cả năm. Chương trình đó cần có sự tham gia của các kinh doanh lữ hành DL và các nhà cung ứng dịch vụ DL trên địa bàn Sơn La.
Các cơ sở kinh doanh ăn uống: Phát triển nhanh về số lượng và quy mô, từng bước đáp ứng nhu cầu của khách DL. Các quán cafe, nhà hàng Á Âu, quán ăn về đặc sản, món ăn dân tộc sử dụng thực phẩm địa phương, hải sản đã xuất hiện rất nhiều dọc trục quốc lộ 6 và tập trung ở thị trấn Mộc Châu, thành phố Sơn La. Đó là do loại hình kinh doanh này dễ thực hiện và có lợi nhuận cao nên có tốc độ phát triển nhanh trong thời gian qua. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cần được chú trọng và kiểm tra thường xuyên.
Các hãng vận chuyển, taxi: hiện nay giao thông Sơn La là đường bộ, phương tiện vận chuyển là ô tô tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Các tuyến xe hai chiều từ Hà Nội – Sơn La liên tục 30 phút có một chuyến, có xe chạy ban ngày, ban đêm. Đã có thêm các tuyến từ Sơn La đi thẳng một số tỉnh như Lào Cai, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Phòng… với nhiều thời điểm khác nhau trong ngày để du khách lựa chọn. Giao thông nội tỉnh có các tuyến xe buýt, có 06 hãng Taxi là Sao Xanh, Sơn La, Hương Sen, Nhất Sơn, 8787 và Sao Việt, có loại hình xe ôm. Về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu vận chuyển, đi lại của du khách đến Sơn La.
Các cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác: đã có một số khu thể thao, công viên chủ đề, bể bơi hiện đại, phòng tập thể hình, thẩm mỹ và cơ sở vui chơi giải trí. Tuy nhiên, đa phần vẫn ở mức độ quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách.
* Nguồn nhân lực DL
Về số lượng: cùng với việc gia tăng số lượng cơ sở lưu trú và số buồng, lao động ngành DL trên địa bàn tỉnh Sơn La thời gian qua tăng nhanh về số lượng, năm 2015 số lượng tăng gấp đôi so với năm 2010. Trong đó lao động trực tiếp chiếm khoảng 80%, lao động gián tiếp chiếm 20%.
Số lượng hướng dẫn viên và thuyết minh viên có số lượng rất ít so với sự phát triển chung của DL Sơn La. Nguyên nhân là số sinh viên xuống Hà Nội học về DL quay lại Sơn La làm việc rất ít. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có Trường Cao Đẳng Sơn La đào tạo ngành DL, có mở các lớp ngắn hạn đào tạo về hướng dẫn viên nhưng không tuyển sinh được do nhận thức của các bạn trẻ đối với nghề DL còn hạn chế và không muốn học trình độ cao đẳng, chỉ muốn học trình độ đại học.
Về chất lượng: Trong tổng số lao động DL trên, lao động đã qua đào tạo các lớp sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học chiếm khoảng 54%, chưa qua đào tạo chiếm 46%. Trình độ đại học, cao đẳng có tỷ lệ đạt chưa cao so với tổng lao động. Trình độ sơ cấp và trung cấp chiếm phần đa số. Lực lượng lao động phổ thông trong DL đang được sử dụng nhiều, người có khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ còn rất ít. Sơn La chưa có những chính sách mạnh mẽ để thu hút được nguồn lực lao động trong lĩnh vực có chất lượng, có trình độ cao đến sinh sống và làm việc.
* Cơ sở kinh doanh lữ hành DL
Hiện nay, Sơn La mới có 7 đơn vị kinh doanh về lữ hành DL. Tại Mộc Châu có Công ty cổ phần DL Pha Luông tại Mộc Châu. Tại thành phố Sơn La gồm có: Công ty DL khách sạn công đoàn, Công ty khách sạn DL Sơn La, Công ty cổ phần cơ khí Sơn La (có Trung tâm lữ hành DL), và 03 khách sạn có bộ phận lữ hành DL là khách sạn Hương Sen, khách sạn Sao Xanh và khách sạn Hà Nội. Trong đó, chỉ có 03 đơn vị có hoạt động DL thường xuyên là: Công ty cơ khí Sơn La, Công ty khách sạn DL Sơn La và Công ty DL Pha Luông. Số lượng cơ sở kinh doanh lữ hành DL như vậy là rất ít và có quy mô nhỏ. Chính quyền Sơn La cần xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư DL đột phá để Sơn La có nhiều doanh nghiệp kinh doanh lữ hành DL hơn. Bởi lẽ, doanh nghiệp là động lực phát triển kinh tế và phát triển DL, đã thể hiện trong quan điểm và quy hoạch phát triển DL, không chỉ ở Sơn La mà ở cấp quốc gia.
3.2. Thực trạng du lịch sinh thái ở Sơn La
Theo nghiên cứu của trường Đại học Tây Bắc năm 2015 đối với 356 du khách đến Sơn La: khách đến Sơn La với mục đích công vụ (công tác, đi họp, kinh doanh) chiếm 45,5%; mục đích tham quan chiếm 37,4%; các mục đích và loại hình khác từ cao xuống thấp là: thăm thân nhân 13,8%; nghỉ dưỡng 7%; học tập nghiên cứu 6,2%; thể thao 4,5%; mạo hiểm 2,5%; sinh thái 1,7% và khác là 14,6%. Số liệu du khách đến Sơn La với mục đích công vụ, tham quan là phù hợp với thực tế. Du khách đến Sơn La do tự tìm hiểu và khám phá những điểm hấp dẫn của DL Sơn La chứ không phải do những chào hàng hấp dẫn và quảng bá xúc tiến DL (Bảng 2).
Số khách đến Sơn La vì mục đích DL mạo hiểm, sinh thái chiếm tỷ lệ thấp chưa tương xứng và phù hợp với tiềm năng sẵn có, điều này có thể do Sơn La chưa tạo ra những sản phẩm DL mạo hiểm, DL sinh thái chưa đủ hấp dẫn và chưa đủ sức cạnh tranh so với những địa phương khác trong khu vực Tây Bắc và cả nước.
Chỉ tiêu | Cơ cấu (%) | Chỉ tiêu | Cơ cấu (%) |
Giới tính | Trình độ học vấn | ||
Nam | 61,8 | Dưới cử nhân | 27.0 |
Nữ | 38,2 | Cử nhân | 59.0 |
Độ tuổi | Thạc sĩ | 10.1 | |
16 – 25 | 15.7 | Tiến sĩ | 3.9 |
26 – 45 | 69.4 | Trên Tiến sĩ | 0 |
46 – 60 | 14.9 | Nghề nghiệp | |
> 60 | 0 | Kinh doanh | 29.2 |
Thu nhập bình quân/tháng (triệu đồng) | Công chức | 31.2 | |
Dưới 5 | 24.2 | Công nhân | 5.9 |
5 đến dưới 10 | 43.8 | Sinh viên | 6.2 |
10 đến 15 | 15.7 | Nghỉ hưu | 8 |
Trên 15 | 16.3 | Khác | 26.7 |
Số lần đi DL Sơn La | Hình thức tổ chức chuyến đi | ||
Lần đầu | 41.0 | Tự tổ chức | 60.7 |
Lần 2 | 16.6 | Hãng lữ hành | 14.9 |
Lần 3 | 6.2 | Khác | 24.4 |
Trên 3 lần | 36.2 | Hình thức đi | |
Mục đích và loại hình DL | Cá nhân | 16.3 | |
Tham quan | 37.4% | Theo đoàn | 55.3 |
Nghỉ dưỡng | 7.0% | Nhóm gia đình | 13.5 |
Thể thao | 4.5% | Nhóm bạn bè | 14.9 |
Công vụ (kinh doanh, hội họp) | 45.5% | Khác | 0 |
Thăm thân | 13.8% | Mức chi tiêu bình quân/ chuyến đi (triệu đồng) | |
Mạo hiểm | 2.5% | Dưới 3 | 34.6 |
Học tập, nghiên cứu | 6.2% | Từ 3 – dưới 5 | 38.5 |
Sinh thái | 1.7% | Từ 5 – dưới 10 | 21.9 |
Khác | 14.6% | Trên 10 | 5.1 |
Thời gian lưu lại Sơn La | Phương tiện đến Sơn La | ||
< = 1 | 23.3 | Xe khách | 35.7 |
2 ngày 1 đêm | 47.5 | Ô tô riêng | 41.9 |
3 ngày 2 đêm | 15.4 | Xe máy | 2.5 |
Trên 3 ngày | 13.8 | Khác | 19.9 |
Nguồn thông tin ảnh hưởng đến quyết định chọn Sơn La làm điểm đến | Lựa chọn về nơi lưu trú
|
||
Người quen | 48.0% | Khách sạn 3 sao | 27.8 |
Công ty DL/ VP đại diện | 5.9% | Khách sạn 2 sao | 30.1 |
Hội chợ DL | 0.8% | Khách sạn 1 sao | 0 |
Internet | 13.5% | Nhà dân | 16.3 |
Truyền hình | 15.4% | Nhà nghỉ | 13.8 |
Bài viết, sách, tập gấp, băng đĩa | 7.6% | Lều trại | 0 |
Khác | 28.1% | Khác | 12.1 |
(Nguồn: Trích số liệu điều tra từ luận án NCS – giảng viên trường Đại học Tây Bắc)
Một số hoạt động nổi bật về phát triển sản phẩm DLST của Sơn La giai đoạn từ năm 2013 – 2015: Xây dựng sản phẩm, mô hình tham quan DL gắn với các sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng như thăm quan rau hoa chất lượng cao; thăm quan những cánh đồng hoa cải; tham quan DL và dịch vụ hái quả tại thung lũng mận Nà Ka 100 ha; DL trải nghiệm nông nghiệp, tắm trà, tắm sữa; tổ chức phát động phong trào trồng hoa, tạo các tuyến đường, tuyến phố có hoa ban trắng mang đậm bản sắc văn hóa Tây Bắc.
Vùng lòng hồ thủy điện Sơn La đã bước đầu hình thành tuyến du lịch theo đường thủy từ bến Bản Két (thị trấn Ít Ong) – bến thuyền Pá Uôn (huyện Quỳnh Nhai) với các điểm du lịch chính trên tuyến: Tham quan cảnh quan lòng hồ, nhà máy thủy điện Sơn La, suối nước nóng Hua Ít, cầu Pá Uôn, đền Linh Sơn Thủy Từ – đền Nàng Han.
Hợp tác liên kết phát triển DL đã phát huy hiệu quả với chương trình hợp tác 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng gồm Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Hà Giang, Lai Châu và Điện Biên được khởi xướng từ năm 2008 nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển du lịch trên vòng cung Tây Bắc. Chương trình được hỗ trợ bởi tổ chức EU. Trong những năm qua du lịch Tây Bắc nói chung và du lịch Sơn La nói riêng đã có nhiều khởi sắc, lượng du khách ngày càng tăng. Trong đó, khu DL quốc gia Mộc Châu và vùng lòng hồ thủy điện Sơn La cũng được quảng bá điểm đến hấp dẫn.
Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từng bước được hoàn thiện theo hướng chuyên môn hóa cao, góp phần nâng dần chất lượng hoạt động quản lý nhà nước về du lịch. Du lịch đã nhận được sự quan tâm đầu tư từ Nhà nước, đồng thời hoạt động đầu tư được thực hiện theo đúng bài bản, tạo thuận lợi lớn cho nhà đầu tư.
Đã bắt đầu thu hút được các nhà đầu tư nghiên cứu tìm hiểu để tiến hành đầu tư. Đây là một trong những thành công không nhỏ từ những nỗ lực đầu tư phát triển du lịch của Mộc Châu và vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La trong thời gian qua.
3.3. Những tồn tại, khó khăn và thách thức với phát triển du lịch sinh thái
* Những tồn tại, khó khăn và thách thức:
DLST ở Sơn La chưa trở thành một loại hình DL hấp dẫn với du khách do đó khách du lịch đi DLST đến Sơn La còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của tỉnh. Thu nhập từ hoạt động du lịch thấp, chưa tạo thành động lực thúc đẩy các hoạt động dịch vụ, thương mại khác phát triển.
Sản phẩm DLST tại Sơn La còn đơn điệu, chưa tạo được thương hiệu, chưa hấp dẫn. Du khách hiện tại chủ yếu là du lịch tham quan đồi chè, ngắm cảnh quan, thăm Công trình nhà máy thủy điện Sơn La, tắm khoáng nước nóng tại thị trấn Ít Ong và bản Lướt xã Ngọc Chiến, tham quan làng bản các dân tộc,… Chưa khai thác được các tiềm năng du lịch hấp dẫn để hình thành hệ thống các sản phẩm du lịch hấp dẫn, có giá trị cao.
Trong khi khu DL quốc gia Mộc Châu đang tương đối phát triển thì tại hoạt động khu DL lòng hồ thuỷ điện Sơn La là tự phát và còn rất hoang sơ. Tại khu vực này chưa có công ty lữ hành đăng ký hoạt động, việc tổ chức hoạt động du lịch thành tour hiệu quả chưa cao, du khách chủ yếu là tự do tham quan, tìm hiểu. Dịch vụ ăn uống, mua sắm nghèo nàn, chỉ có một số cửa hàng, nhà hàng bán các sản phẩm địa phương nhưng với quy mô nhỏ. Hệ thống các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch chưa phát triển, hệ thống sản phẩm du lịch, dịch vụ còn nghèo nàn, đơn điệu. Hệ thống dịch vụ phụ trợ chất lượng thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nhu cầu của khách du lịch.
Hoạt động đầu tư hạ tầng cơ sở bắt đầu cho thấy sự thiếu đồng bộ trong quá trình triển khai đặc biệt là khu vực trung tâm du lịch sinh thái Mộc Châu. Giao thông từ thị trấn Ít Ong vào xã Ngọc Chiến chưa thuận lợi, nhất là vào mùa mưa, các điểm tham quan trên tuyến chưa được đầu tư nên hiện hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Chủ yếu thu hút du khách đi “phượt”. Khu vực Quỳnh Nhai mới chỉ là điểm dừng chân với thời gian ngắn trên tuyến du lịch từ Sapa – Điện Biên qua quốc lộ 279.
Quản lý nhà nước về du lịch: Hiện nay du lịch Vùng lòng hồ thủy điện Sơn La chưa có Ban quản lý. Các hoạt động du lịch diễn ra tại khu vực chịu sự quản lý của UBND huyện, trong đó phòng Văn hóa và Thông tin, các phòng ban khác là cơ quan chuyên môn giúp UBND huyện trong hoạt động quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn huyện. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong bộ máy quản lý nhà nước về du lịch còn thiếu chặt chẽ do đó, hiệu quả chưa cao.
* Một số nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất, các sản phẩm DLST hiện nay chủ yếu phát triển tự phát trên cơ sở khai thác một số giá trị về thắng cảnh, di tích lịch sử… các sản phẩm có hàm lượng giá trị và dịch vụ cao hầu như chưa phát triển một phần cũng do chưa thu hút được các nguồn lực và các thành phần trong xã hội đầu tư phát triển. Tình trạng chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao còn liên quan đến sự hạn chế về nguồn nhân lực du lịch, theo đó còn thiếu về số lượng và rất hạn chế về chất lượng. Ngoài ra chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu sâu về những giá trị sinh thái và môi trường mang lại sự thoả mãn cho du khách theo góc độ phát triển DLST.
Thứ hai, DLST Sơn La chưa được đầu tư tương xứng để phát triển thành một loại hình DL hấp dẫn khách du lịch đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Trong những năm qua, hoạt động đầu tư phát triển du lịch nói chung và phát triển DLST nói riêng chưa thu hút được các nguồn lực và các thành phần trong xã hội tham gia để tạo thành sức bật nâng tầm cho du lịch Sơn La. Bên cạnh đó khả năng thu hút các nhà đầu tư cũng như những nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch của Sơn La trong thời gian qua cũng còn thấp. Các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực DL tại Sơn La còn rất ít ỏi do cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào ngành DL chưa thực sự đủ sức hấp dẫn.
Thứ ba, phát triển DLST thời gian qua còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch với các ban ngành có liên quan, giữa du lịch với chính quyền địa phương và các đối tác có liên quan khác, đặc biệt là với các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương. Sự liên kết giữa các điểm DL, các doanh nghiệp Sơn La với các doanh nghiệp lữ hành trong toàn quốc còn chưa chặt chẽ trong mối quan hệ cộng sinh. Mối quan hệ và cơ chế phối hợp giữa 4 bên: Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và người dân địa phương chưa được chú trọng và phát huy sức mạnh của mỗi bên.
Thứ tư, cho đến nay Sơn La chưa tạo dựng được thương hiệu du lịch của mình trên thị trường du lịch trong và ngoài nước. Hạn chế này là do công tác xúc tiến quảng bá mở rộng thị trường du lịch của Sơn La chưa được quan tâm đúng mức. Các hoạt động xúc tiến quảng bá mới được tổ chức ở phạm vi hạn hẹp, trong nước, hầu như chưa quan tâm đến việc xúc tiến quảng bá ở thị trường nước ngoài.
Tiềm năng phát triển DLST ở Sơn La rất lớn và đã có các quy hoạch tổng thể, quy hoạch các khu DL, nhưng với thực trạng hiện nay, ngành DL Sơn La cần phải thực hiện những công việc ưu tiên gì để thúc đẩy phát triển DLST bền vững ở Sơn La?
- Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái ở Sơn La
4.1. Ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch sinh thái đặc thù
Mặc dù Sơn La có rất nhiều tài nguyên tiềm năng cho phát triển DLST nhưng thời gian tới, ngành DL Sơn La cần ưu tiên tập trung nguồn lực để xây dựng và phát triển thành công 03 sản phẩm DLST đặc thù sau:
Sản phẩm DLST gắn với khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha – Mộc Châu: khai thác và quảng bá những giá trị sinh thái đặc biệt mà các nhà khoa học đã nghiên cứu và chưa nghiên cứu để thu hút du khách đến thăm quan, chiêm ngưỡng, nghiên cứu và khám phá. Để tạo sức thu hút lớn, chính quyền và ban quản lý khu bảo tồn cần xây dựng bộ sưu tập và khu trưng bày một số loài thực vật, động vật quý hiếm đã được nghiên cứu và công bố.
Sản phẩm DLST gắn với trải nghiệm nông nghiệp tại Mộc Châu: thăm quan và trải nghiệm quy trình trồng, chăm sóc chè, hái chè, chế biến và thưởng thức chè; thăm quan, chăm sóc cây ăn quả, hái quả, tiếp tục duy trì sự kiện ngày hội hái quả hàng năm tại thung lũng mận hậu Nà Ka.
Sản phẩm DLST gắn với cảnh quan mặt nước và khung cảnh thiên nhiên tại vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La: ngắm cảnh quan sông nước, núi cao, hang động, đảo nhỏ, trải nghiệm cuộc sống ngư dân sông đà kết hợp nghỉ dưỡng ven hồ.
4.2. Thiết kế các tour tuyến liên kết du lịch vùng Tây Bắc
Để khai thác các sản phẩm DLST đặc thù đã nêu trên, các tour tuyến DL cần được chú trọng thực hiện như sau: Xây dựng sản phẩm DL theo tour, tuyến DL tạo cho khách những trải nghiệm mới với mục tiêu nâng thời gian lưu trú của khách tại Sơn La; Liên kết các doanh nghiệp lữ hành, đưa sản phẩm DLST đặc thù của Sơn La vào chương trình tour đến Sơn La và tour DL cung đường Tây Bắc: Quảng bá các tour DLST đã được thiết kế rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng cho các khách hàng tiềm năng để họ đăng ký đi tour của doanh nghiệp lữ hành hoặc tự tổ chức đi theo nhóm hoặc gia đình.
Liên kết với Mai Châu – Hoà Bình: Tour DLST, văn hóa, nghỉ dưỡng gắn với tuyến Hà Nội – Hoà Bình – Mộc Châu – Hà Nội.
Liên kết với Phú Thọ: Tour DL nghỉ dưỡng, sinh thái, văn hóa gắn với tuyến Hà Nội – Phú Thọ – Phù Yên – Bắc Yên – Mộc Châu – Hà Nội.
Liên kết với Yên Bái: Tour DLST văn hóa gắn với tuyến DL Hà Nội – Mù Cang Chải – Trạm Tấu (Yên Bái) – Ngọc Chiến – Thủy Điện – Sơn La – Mộc Châu – Hà Nội.
Liên kết với Lào Cai: Tuyến du lịch theo quốc lộ 279: Thành phố Sơn La – Thuận Châu – Quỳnh Nhai – Lai Châu – Lào Cai.
Liên kết với Điện Biên, Lai Châu: Tuyến du lịch theo quốc lộ 6 kết nối Mộc Châu với Sơn La – Điện Biên – Lai Châu (ở phía Tây Bắc) và Hòa Bình – Hà Nội (ở phía Đông Nam). Tour DLST văn hóa gắn với chương trình DL qua miền Tây Bắc: Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên – Lào Cai – Phú Thọ – Hà Nội.
Liên kết tuyến DL trên sông – tour DLST trên Sông Đà: tuyến du lịch hình thành trên sông Đà khai thác tiềm năng du lịch sông nước dọc theo sông Đà, theo tuyến thuỷ điện Hoà Bình – thuỷ điện Sơn La – Thuỷ điện Lai Châu.
Ngoài ra, cần chú trọng tour DLST quốc tế: Hà Nội – Sơn La – Bắc Lào – Hà Nội. Đây là tuyến du lịch nối Mộc Châu với Lào thông qua cửa khẩu Lóng Sập theo quốc lộ 43. Tuyến xuất phát từ thị trấn Mộc Châu qua cửa khẩu Lóng Sập và kết nối với các điểm du lịch chính ở Lào như chiến khu Sầm Nưa, cố đô Luông Pra Băng, cánh đồng chum, huyện Viêng Xay (Tỉnh Hủa Phăn – nước CHDCND Lào – Khu di tích lịch sử của cách mạng Lào)… Tuyến du lịch Hà Nội – Mộc Châu – Lào – Thái Lan.
4.3. Phát huy vai trò quản lý của Nhà nước và tăng cường hợp tác công tư
Để phát triển DLST bền vững, tăng cường hợp tác giữa khối cơ quan công quyền và khối tư nhân thì cần phải liên kết chặt chẽ giữa 4 bên: Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà kinh doanh – Cộng đồng dân cư địa phương. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất định hướng, ban hành cơ chế, quản lý, kiểm soát quá trình phát triển DLST nhằm đạt được lợi ích kinh tế cho các bên tham gia, bảo vệ tài nguyên môi trường, giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thồng, đảm bảo an ninh chính trị.
Về phía Nhà nước: tiếp tục phát huy vai trò của Ban quản lý Khu du lịch Mộc Châu; thành lập Ban quản lý Khu DL vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La; ban hành cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các khu DL, đặc biệt khuyến khích thành lập các doanh nghiệp lữ hành và dịch vụ DL để khai thác các sản phẩm, tour DLST đặc thù của Sơn La. Về phía doanh nghiệp kinh doanh DL: chủ động liên kết với các doanh nghiệp kinh doanh DL lữ hành tại các tỉnh lân cận và trong cả nước để giới thiệu và đưa sản phẩm DLST vào trong các tờ rơi, tờ gấp, chương trình tour DL vùng Tây Bắc đến với khách hàng ngay từ đầu. Về phía nhà khoa học: đề xuất và nghiên cứu những đề tài khoa học liên quan đến phát hiện và khai thác giá trị tài nguyên rừng, tài nguyên sinh thái, tài nguyên mặt nước… để phục vụ phát triển DLST ở Sơn La, chú trọng địa chỉ ứng dụng và khả năng thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu tài nguyên và hệ sinh thái của địa phương. Về phía người dân địa phương: tham gia bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái nơi mình sinh sống, tích cực tham gia các hoạt động DLST như làm hướng dẫn viên, sản xuất hàng thủ công lưu niệm, dịch vụ ẩm thực, lưu trú cho du khách; liên kết từng hộ dân, cá nhân lại thành hợp tác xã hoặc tổ sản xuất, tổ cung cấp dịch vụ để phát huy sức mạnh và bổ sung cho nhau những kiến thức, kinh nghiệm phát triển DLST.
Thực hiện được tốt sự liên kết giữa 4 bên sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp về trí tuệ, sức lực, sự đoàn kết, các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính góp phần đẩy mạnh công tác xã hội hoá trong lĩnh vực DL và phát triển DLST theo hướng bền vững./.
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Trọng Dũng (2011), Phát triển du lịch sinh thái bền vững ở Tây Bắc Việt Nam trên phương diện đánh giá điều kiện tự nhiên, NXB Đại học Thái Nguyên.
- Sở Văn hoá, Thể thao và DL tỉnh Sơn La, Báo cáo tổng kết hoạt động DL từ năm 2008 đến năm 2015.
- Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Mộc Châu, tỉnh Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
- UBND tỉnh Sơn La (2014), Quyết định về việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển DL tỉnh Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
- UBND tỉnh Sơn La (2014), Quyết định về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển du lịch vùng lòng hồ thủy điện Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Người viết: Nguyễn Văn Bao, Hoàng Xuân Trọng
Lịch học kỳ phụ hè năm học 2016 – 2017
Dưới đây là các môn học kỳ phụ hè năm học 2016 – 2017 do các giảng viên khoa Kinh tế giảng dạy. Do số lượng sinh viên đăng ký ít nên các sinh viên chủ động lên văn phòng khoa Kinh tế hỏi cô trợ lý khoa hoặc liên hệ trực tiếp với giảng viên (số điện thoại ở bảng dưới) để nắm được thời gian và địa điểm học cụ thể.
Mã HP | Số ĐK | Tên HP | TC | Tên giảng viên
|
Số điện thoại GV | Thời gian, địa điểm | |
5160098 | 1 | Kế toán quản trị | 3 | Lê Thị Thanh | Nhàn | 0987246665 | 18/7 – 19/7 |
5160126 | 0 | Kế toán thuế | 2 | Lương Thị | Thủy | ||
5160170 | 2 | Lý thuyết kiểm toán | 3 | Nguyễn Anh | Ngọc | 0962936488 | |
5160172 | 1 | Kế toán quản trị doanh nghiệp | 3 | Lê Thị Thanh | Nhàn | 0987246665 | 18/7 – 19/7 |
KTT0001 | 4 | Lý thuyết hạch toán kế toán | 4 | Nguyễn Thị Phương | Thảo | 0982431134 | |
KTT0002 | 18 | Kế toán tài chính doanh nghiệp 1 | 5 | Vũ Thị | Sen | 0948826578 | |
KTT0003 | 9 | Kế toán tài chính doanh nghiệp 2 | 3 | Đỗ Thị Minh | Tâm | 0975196968 | |
KTT0004 | 7 | Kế toán tài chính doanh nghiệp 3 | 3 | Đỗ Thị Minh | Tâm | 0975196968 | |
KTT0006 | 2 | Kế toán công | 3 | Vũ Thị | Sen | 0948826578 | |
KTT0009 | 4 | Kế toán máy đơn vị hành chính sự nghiệp | 2 | Đỗ Thị Minh | Tâm | 0975196968 | |
KTT0011 | 4 | Thực hành kế toán DN thương mại & dịch vụ | 2 | Lê Thị Thanh | Nhàn | 0987246665 | 24/7 – 27/7 |
KTT0012 | 2 | Thực hành kế toán doanh nghiệp xây lắp | 2 | Nguyễn Anh | Ngọc | 0962936488 | |
KTT0015 | 1 | Kế toán ngân sách | 3 | Lê Thị Thanh | Nhàn | 0987246665 | 20/7 – 21/7 |
KTT0017 | 5 | Kế toán quốc tế | 3 | Nguyễn Anh | Ngọc | 0962936488 | |
KTT0018 | 5 | Kế toán công ty | 3 | Nguyễn Thị Phương | Thảo | 0982431134 | |
5160076 | 1 | Lịch sử kinh tế quốc dân | 2 | Mai Nguyễn Phương | Dung | 0968080858 | |
5160092 | 1 | Kinh tế phát triển | 2 | Đặng Công | Thức | 0963050485 | |
5160134 | 1 | Kinh tế lượng | 3 | Phan Nam | Giang | 0973742699 | |
KIT0002 | 17 | Kinh tế lượng | 4 | Phan Nam | Giang | 0973742699 | |
KIT0007 | 20 | Kinh tế vĩ mô | 4 | Nguyễn Hồng | Nhung | 0988114968 | 18/7 -21/7, B310 |
KIT0008 | 4 | Lập và quản lý dự án đầu tư | 3 | Nguyễn Hà Bảo | Ngọc | 0972556586 | |
KIT0010 | 4 | Luật kinh tế | 4 | Mai Nguyễn Phương | Dung | 0968080858 | 24/7- 27/7 |
KIT0015 | 4 | Thị trường chứng khoán | 3 | Đặng Công | Thức | 0963050485 | |
KIT0018 | 1 | Thuế | 3 | Lò Thị Huyền | Trang | 0919512577 | |
KIT0020 | 2 | Quản lý trang trại nông lâm nghiệp | 3 | Đặng Huyền | Trang | 0988907669 | |
KIT0021 | 9 | Quản lý doanh nghiệp lâm nghiệp | 2 | Nguyễn Hà Bảo | Ngọc | 0972556586 | |
NNH0084 | 2 | Kinh tế học | 2 | Đỗ Thị Thu | Hiền | 0974170502 | |
5160154 | 1 | Kinh tế vi mô I | 3 | Trương Thị | Luân | 0976936102 | |
5160209 | 1 | Đạo đức kinh doanh và VH doanh nghiệp | 2 | Nguyễn Thị Thanh | Thủy | 01692461107 | 17/7 – 18/7 |
KIT0006 | 16 | Kinh tế vi mô | 4 | Trương Thị | Luân | 0976936102 | |
KIT0012 | 2 | Phân tích hoạt động kinh doanh | 3 | Lã Thị Bích | Ngọc | 0986535935 | |
KQT0002 | 5 | Quản trị văn phòng | 3 | Nguyễn Thị Mai | Phương | 0916006472 |