Chuyên mục chính

Tập thể cán bộ, giáo viên Khoa Kinh tế năm 2013

Thông tin tóm tắt về đề tài Chiến lược quảng bá mặt hàng thổ cẩm ở Sơn La

Ngày nay, quảng bá sản phẩm và thương hiệu đóng vai trò rất quan trọng trong kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm nhất là đối với những mặt hàng truyền thống như thổ cẩm. Định hướng cách thức quảng bá sao cho phù hợp với từng loại hình sản phẩm, từng đối tượng khách hàng là vấn đề sống còn cho việc quảng bá sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, địa phương.

Tên đề tài: Chiến lược quảng bá hàng thổ cẩm ở Sơn La

Sinh viên thực hiện:
1. Hứa Thị Thanh
2. Ngô Thị Khánh An
Lớp: K52 – ĐHQTKD – Khoa: Kinh tế

Mục đích của đề tài

Về mặt lý luận: Làm rõ cơ sở lý luận về chiến lược quảng bá sản phẩm.

Về mặt thực tiễn: Khảo sát, đánh giá thực trạng chiến lược quảng bá mặt hàng thổ cẩm ở Sơn La.

Từ đó xây dựng những chiến lược quảng bá cho mặt hàng thổ cẩm ở Sơn La và xác định điều kiện để thực hiện thành công chiến lược quảng bá đã đề ra, góp phần phát triển kinh tế – xã hội và xoá đói giảm nghèo tại Sơn La.

Tóm tắt đề tài

Sơn La một tỉnh vùng cao thuộc khu vực miền núi phía Bắc, sau gần 20 năm đổi mới kinh tế đất nước ta nói chung Sơn La nói riêng cũng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đời sống vật chất, tinh thần nhân dân ta được nâng lên rõ rệt. Kinh tế ở khu vực nông thôn cũng như miền núi đã chuyển hướng theo đà CNH – HĐH.

Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, kinh tế của tỉnh sau những năm đổi mới tuy có tốc độ tăng trưởng khá cao so với cả nước, nhưng chưa vững chắc, chất lượng chưa cao, hiệu quả và khả năng cạnh tranh thấp. Đến nay, kinh tế của Sơn La về cơ bản vẫn trong tình trạng sản xuất nhỏ, cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế còn đơn điệu, lạc hậu năng suất lao động thấp. Đặc biệt là vùng sâu, vùng xa nền kinh tế còn mang nặng tính tự nhiên, tự cung tự cấp hay nói một cách khác thị trường “trống” còn rất lớn.

Khoảng cách chênh lệch về mức sống, trình độ dân trí, trình độ văn hóa giữa các vùng đô thị, vùng gần trục giao thông với vùng cao, vùng sâu, vùng xa không những không thu hẹp mà ngày càng tăng lên. Ngành nghề chủ yếu và phổ biến ở Sơn La là nghề dệt hàng thổ cẩm thủ công bán lấy tiền làm thu nhập cho bản thân và gia đình người dân Sơn La.

Ngày nay, kinh tế thị trường đã phát triển, thổ cẩm đã có mặt trên thị trường, thậm chí nó còn được người tiêu dùng ở các thành phố lớn yêu thích. Tuy nhiên, không phải lúc nào người tiêu dùng ở thành phố cũng có thể mua được thổ cẩm của những người dân tộc, đặc biệt là của người Thái Sơn La. Thổ cẩm của người Thái Sơn La với những hoạ tiết hoa văn phong phú, nhã nhặn đã chiếm được cảm tình của nhiều khách hàng trong nước và quốc tế. Nhưng hiện nay, Sơn La chưa có được những làng chuyên dệt thổ cẩm. Do sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, tự phát nên nhiều sản phẩm tạo ra không phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Nếu có chiến lược hành động và phát triển cụ thể và đúng đắn sẽ tạo được việc làm và thu nhập ổn đinh cho người làm nghề, góp phần thúc đẩy kinh tế, dân trí,….Giữ được nghề dệt thổ cẩm là giữ được những nét văn hoá cổ truyền của người Thái. Nếu biết kết hợp giữa tính dân tộc và tính hiện đại thì nghề dệt thổ cẩm ở Sơn La sẽ tạo được những mặt hàng kinh tế cao, có giá trị trên thị trường. Người Thái Sơn La tự hào vì có sản phẩm thổ cẩm. Qua bao đời nay đã chứng tỏ một điều thổ cẩm là thứ không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của người Thái. Nó là biểu tượng của văn hoá Thái. Tuy mặt hàng có những nét đặc trưng, độc đáo nhưng không phải ai cũng biết và hiểu về điều đó. Thách thức đặt ra là làm thế nào để nhiều người biết đến mặt hàng thổ cẩm Sơn La, từ đó sẽ góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng thổ cẩm giúp người dân Sơn La có thu nhập và xóa đói giảm nghèo.

Vì vậy, nghiên cứu về vấn đề tìm đường đi mới cho nghề làm thổ cẩm ở Sơn La đang là yêu cầu bức xúc cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ tình hình thực tế đó nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chiến lược quảng bá hàng thổ cẩm ở Sơn La” làm đề tài nghiên cứu cấp trường.

Ngày nay, quảng bá sản phẩm và thương hiệu đóng vai trò rất quan trọng trong kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm nhất là đối với những mặt hàng truyền thống như thổ cẩm. Định hướng cách thức quảng bá sao cho phù hợp với từng loại hình sản phẩm, từng đối tượng khách hàng là vấn đề sống còn cho việc quảng bá sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, địa phương. Thực tế cho thấy việc áp dụng các chiến lược quảng bá vào bán hàng sản phẩm thổ cẩm Sơn La còn yếu, do kinh nghiệm và trình độ của các chủ thể kinh doanh còn non nớt và không đồng đều trong khi thị trường cạnh tranh trong ngành ngày càng gay gắt, sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế mặt hàng truyền thống; sự ảnh hưởng của lối sống phương Tây là cho những giá trị văn hóa nói chung và những sản phẩm truyền thống như thổ cẩm nói riêng ngày càng trở nên mờ nhạt và dần mai một. Nếu không có những chiến lược quảng bá đúng đắn thì sản phẩm thổ cẩm sẽ dần bị lãng quên và chỉ còn được trưng bày trong bảo tàng. Vì vậy việc hoạch định xây dựng và áp dụng chiến lược quảng bá hàng thổ cẩm ở Sơn La trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra cho các cơ quan chức năng và các cơ sở kinh doanh là làm thế nào để áp dụng các chiến lược phù hợp với điều kiện của cơ sở mình để mang lại thành công, giúp cho mặt hàng thổ cẩm được nhiều người biết đến, yêu thích và sử dụng nó. Khi nhận thức được được các yêu cầu đòi hỏi này sẽ giúp các cơ sở cũng như cơ quan chức năng và chính quyền địa phương khai thác tốt những tiềm năng, lợi thế độc đáo của cơ sở sản xuất kinh doanh, xây dựng những chiến lược quảng bá phù hợp nhất.

Để thực hiện các chiến lược quảng bá hàng thổ cẩm tại Sơn La, trước hết các cơ sở kinh doanh cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản về chất lượng sản phẩm, hình thức mẫu mã sản phẩm, tránh tình trạng ” treo đầu dê, bán thịt chó”. Đội ngũ nhân viên bán hàng cần có trình độ giao tiếp, ngoại ngữ, thái độ thân thiện cởi mở; giá cả một sản phẩm phải đúng với giá trị thực của nó. Khi quyết định áp dựng chiến lược quảng bá nào thì cần nghiên cứu xem các nguồn lực hiện có của cơ sở mình như thế nào?, thực trạng trên thị trường đã áp dụng những chiến lược đó chưa?, hiệu quả mang lại như thế nào?. Các cơ sở kinh doanh phải ý thức được rằng việc áp dụng các chiến lược quảng bá hàng thổ cẩm không chỉ là để tạo ra lợi nhuận cho cơ sở mình, tăng sức cạnh tranh với đối thủ mà còn là cầu nối gián tiếp quảng bá nền văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc Sơn La đến với khách hàng.

Việc quảng bá sản phẩm hàng thổ cẩm Sơn La cũng không chỉ là việc của các cơ sở kinh doanh phải thực hiện, mà đó còn là trách nhiệm đương nhiên của các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương. Vì vậy, các tổ chức này cần tạo điều kiện thuận lợi nhất, đưa ra những chính sách hỗ trợ, thành lập một hiệp hội làng nghề thổ cẩm ở Sơn La để bảo vệ quyền lợi cũng như thắt chặt nghĩa vụ của các cơ sở kinh doanh thổ cẩm, tăng sức cạnh tranh với các cơ sở ngoại tỉnh và các mặt hàng thay thế.

Qua nghiên cứu cho thấy, Sơn La là một thị trường tiêu thụ tiềm năng về mặt hàng thổ cẩm do cơ cấu dân số với dân tộc Thái chiếm hơn nửa tổng số dân trong tỉnh; mặt khác Sơn La là một địa phương có tiềm năng du lịch khá cao vì vậy cần có những chiến lược quảng bá hàng thổ cẩm để mặt hàng truyền thống này được đi xa hơn phạm vi của tỉnh.

Với sự giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn thầy giáo Hoàng Xuân Trọng, sự giúp đỡ về kinh phí của phòng khoa học- công nghệ của trường đại học Tây Bắc nhóm chúng tôi đã hoàn thành đề tài “ Chiến lược quảng bá hàng thổ cẩm ở Sơn La” với những nội dung trong khuôn khổ định hướng đề tài đã được duyệt. Chúng tôi hi vọng đây là sự khởi đầu của những nghiên cứu tiếp theo để ý tưởng phát triển và áp dụng các chiến lược quảng bá hàng thổ cẩm ở Sơn La được đi vào thực tế và đạt hiệu quả. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của những bên hữu quan để tài được hoàn thiện hơn.

Nhóm sinh viên nghiên cứu

Tóm tắt đề tài Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La

Đứng trước thách thức do du lịch mang lại. Vùng hồ thủy điện Sơn La vẫn còn gặp phải nhiều vấn đề chưa được giải quyết như chưa có một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ. Các sảm phẩm của du lịch chưa có nhiều tính sáng tạo , du lịch tạm thời, dịch vụ còn nhiều bất cập. Chưa có nhiên cứu chuyên sâu về du lịch bền vững vùng hồ thủy điện Sơn La.

Tên đề tài: Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La.

Nhóm sinh viên thực hiện :
1. Đỗ Thị Thùy Linh
2. Bùi Thị Cúc
3. Thào Thị Chí
Lớp: K52 Đại Học Quản Trị Kinh Doanh. Khoa: Kinh Tế. Năm thứ 3. Số năm đào tạo: 4 năm.

Người hướng dẫn: ThS. Hoàng Xuân Trọng.

Mục đích của đề tài

Hệ thống hóa cơ sở lí luận về phát triển du lịch. Từ đó, khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La. Và đưa ra các giải pháp có tính khả thi, những kiến nghị nhằm phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La.

Tóm tắt đề tài

Ở Sơn La nói chung và thủy điện Sơn La nói riêng có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển ngành du lịch về khí hậu , địa hình , đất đai , tài nguyên rừng… Bên cạnh những điều kiện tự nhiên, Vùng hồ thủy điện Sơn La còn có những điều kiện văn hóa – xã hội thuận lợi cho phát triển du lịch: vùng hồ thủy điện Sơn La là vùng đất sinh sống lâu đời của 7 dân tộc anh em . Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng độc đáo và tương đồng. Nhiều làng bản dân tộc có đủ điều kiện để phát triển du lịch gắn với xóa đói giảm nghèo để đời sống nhân dân được cải thiện , tiến bộ hơn.

Đứng trước thách thức do du lịch mang lại. Vùng hồ thủy điện Sơn La vẫn còn gặp phải nhiều vấn đề chưa được giải quyết như chưa có một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ.Các sảm phẩm của du lịch chưa có nhiều tính sáng tạo , du lịch tạm thời, dịch vụ còn nhiều bất cập. Chưa có nhiên cứu chuyên sâu về du lịch bền vững vùng hồ thủy điện Sơn La. Thách thức đặt ra là làm thế nào để nhiều người biết đến du lịch bền vững vùng hồ thủy điện Sơn La. Từ đó sẽ góp phần giúp người dân Sơn La có tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo. Chính vì vậy, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La ” để nghiên cứu.

Phát hiện ra được tiềm năng phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La do tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn tạo ra. Tài nguyên di lịch tự nhiên tạo nên sự thuận tiện về vị trí địa lý hấp dẫn du khách ghé lại thăm quan, khí hậu tại khu vực là điều kiện quyết định số khách du lịch đến với vùng hồ thủy điện Sơn La; đặc điểm nổi bật nhất của núi ở vùng hồ thuỷ điện là dốc đứng, hiểm trở kết hợp với núi non đan xen trùng điệp. Sự có mặt của dạng địa hình đặc sắc trên cũng chính là yếu tố thu hút khách du lịch đến với thuỷ điện Sơn La; không những thế tại khu vực vùng hồ thủy điện Sơn La còn có hệ động – thực vật phong phú và đa dạng, hệ động – thực vật này là sản phẩm thiên nhiên ban tặng cho nơi đây từ đó có thể phát triển du lịch sinh thái tại vùng hồ thủy điện Sơn La giúp du khách tìm hiểu và khám phá sâu hơn về đất trời Tây Bắc. Nếu nói tài nguyên du lịch tự nhiên mang tính vật chất, những cái có thể nhìn thấy được thì tài nguyên du lịch nhân văn lại mang tính tinh thần. Tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch tại vùng hồ thủy điện Sơn La được lưu giữ trong các bảo tàng, các phong tục tập quán của người dân được truyền từ đời này qua đời khác và để nó trở thành các sản phẩm du lịch độc đáo cần được khôi phục và phát triển chúng, lối sống của mỗi dân tộc trong vùng hình thành các món ăn độc đáo của từng dân tộc như rượu cần, Pa Pỉnh Tộp, Cơm Lam,… không chỉ đa dạng về tài nguyên, du lịch tại vùng hồ thủy điện Sơn La còn có nhiều cơ hội để phát huy thế mạnh, đó là sự quan tâm của chính quyền tỉnh Sơn La, Sở văn hóa thể thao và du lịch Sơn La, chính phủ các bộ ngành liên quan do gắn với công trình thủy điện lớn nhất của nước ta. Bên cạnh những cơ hội trên, du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La cũng gặp phải không ít thách thức đó là nhận thức về du lịch của đồng bào sinh sống quanh vùng hồ thủy điện còn nhiều hạn chế, tài nguyên và môi trường có nguy cơ bị suy thoái, cần có chiến lược bảo vệ đúng cách.

Bên cạnh những tiềm năng về phát triển du lịch, vùng hồ thủy điện Sơn La vẫn đang phải đối mặt với những thực trạng đang tồn tại trong việc phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La. Trước hết về cơ sở hạ tầng, hiện nay đường đi vào thủy điện dài 4,5km tính từ cổng chào huyện Mường La đi vào, cách thành phố Sơn La khoảng 41 km, bề rộng là 5m, đã được rải nhựa liên tỉnh của huyện Mường La, con đường này giúp du khách thuận tiện hơn trong việc di chuyển khi đi du lịch; bưu chính viễn thông của huyện đã có nhiều tiến bộ, các xóm, xã của huyện đã phủ sóng điện thoại, đa phần các hộ gia đình đã có điện thoại làm phương tiện liên lạc. Thứ hai, vấn đề về cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch. Khu vực huyện Mường La 2 loại cơ sở lưu trú là khách sạn và nhà nghỉ, trong đó có một khách sạn đạt 2 sao, 04 cơ sở đã được xếp hạng nhà nghỉ du lịch, 06 cơ sở chưa xếp hạng. Hiện nay có 7 cơ sở kinh doanh nhà hàng ăn uống trong đó có 7 nhà hàng và một khách sạn. Thứ ba là vấn đề về lực lượng lao động trong ngành du lịch, đội ngũ lao động du lịch còn ít, số lao động chưa qua đào tạo vẫn cao, cơ cấu lao động có sự thay đổi nhưng không đáng kể. Thứ tư, thực trạng về số khách du lịch và doanh thu du lịch tại vùng hồ thủy điện Sơn La. Từ năm 2011 đến 2013 số khách đến vùng hồ thủy điện Sơn La tăng lên đáng kể, tuy nhiên chưa có cơ quan đứng ra thống kê về doanh thu đem lại cho khu vực do du lịch tại đây chưa được quản lý như một khu du lịch chính thức. Từ đó, phân tích được thế mạnh và các điều kiện để đáp ứng được yêu cầu về phát triển du lịch vùng hồ thủy điện cũng như rút ra được những ưu điểm và hạn chế trong việc phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La để có các giải pháp về việc hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, khôi phục và bảo tồn tài nguyên du lịch.

Từ những thực trạng trên, có thể đưa ra một số giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La. Định hướng và mục tiêu phát triển du lịch nơi đây là nên tận dụng lợi thế về tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn; phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch gắn với bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường; đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá sản phẩm du lịch. Du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La phấn đấu đạt các mục tiêu đề ra đến năm 2020 và đạt được các mục tiêu chung về du lịch của vùng. Đó là các giải pháp về hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, khôi phục và bảo tồn tài nguyên du lịch, cần có các biện pháp để giải quyết sự kết hợp giữa tài nguyên du lịch với kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật sao cho đồng bộ, thực hiện các giải pháp làm sao cho hấp dẫn và thu hút du khách đến với thủy điện trong những năm tiếp theo. Để các giải pháp đó thực hiện một cách triệt để không thể không kể đến các cơ chế, chính sách về du lịch của các ban, ngành có liên quan.

Qua nghiên cứu cho thấy, vùng hồ thủy điện Sơn La có những tiềm năng, thế mạnh riêng để phát triển du lịch nơi đây. Tuy nhiên, vùng hồ thủy điện Sơn La vẫn còn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Chính vì vậy, cần có những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trên đồng thời cần sự giúp đỡ của các bên chức năng để phát triển du lịch nơi đây thành khu du lịch có ý nghĩa không chỉ đối với địa phương mà còn có ý nghĩa với tỉnh, với khu vực.

Với sự giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn ThS. Hoàng Xuân Trọng cùng các thầy cô giáo bên khoa Kinh Tế và sự giúp đỡ về kinh phí của phòng khoa học – công nghệ của trường đại học Tây Bắc nhóm chúng tôi đã hoàn thành đề tài “ Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La – Sơn La” với những nội dung trong khuôn khổ định hướng đề tài đã được duyệt. Chúng tôi hi vọng đây là sự khởi đầu của những nghiên cứu tiếp theo để phát triển du lịch vùng hồ thủy điện Sơn La nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng được đi vào thực tế và hiệu quả. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của những bên hữu quan để đề tài được hoàn thiện hơn.

Nhóm sinh viên nghiên cứu

Quy định xếp loại cán bộ, công chức khoa Kinh tế

CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Căn cứ theo quy định xếp loại cán bộ, công chức của Trường Đại học Tây Bắc hiện hành.

CHƯƠNG II: TIÊU CHÍ XẾP LOẠI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

Điều 6: Cán bộ, công chức xếp loại A trong tháng phải đạt những tiêu chuẩn sau:

1. Đối với khối hành chính:

Tuân theo quy định xếp loại cán bộ, công chức của Trường Đại học Tây Bắc hiện hành.

2. Đối với khối giảng dạy:

– Có phẩm chất chính trị tốt, thực hiện nghiêm chỉnh các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

– Hoàn thành tốt các quy định về công tác chuyên môn: nộp điểm, chấm điểm (kế cả chuyên đề, khoá luận,…) đúng thời gian quy định.

– Tham gia các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt chuyên đề, nghiên cứu khoa học của đơn vị đạt hiệu quả.

– Tham gia đầy đủ các buổi họp, học tập nghị quyết, sinh hoạt chuyên đề,… do đơn vị và nhà trường tổ chức.

– Hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác cố vấn học tập, giáo viên chủ nhiệm (nếu được phân công)

– Có tác phong giảng dạy nghiêm túc, gương mẫu.

– Có đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, tuân thủ các quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội.

– Chấp hành tốt mọi nội quy của đơn vị, quy chế, quy định của Nhà trường.

Điều 7: Cán bộ, công chức xếp loại B là những người trong tháng có 1 trong những vi phạm sau:

1. Đối với khối hành chính

Tuân theo quy định xếp loại cán bộ, công chức của Trường Đại học Tây Bắc hiện hành.

2. Đối với khối giảng dạy

– Có 1 buổi bỏ dạy hoặc bỏ coi thi không có lý do chính đáng

– Có 1 lần không chấp hành sự phân công của lãnh đạo đơn vị không có lý do chính đáng.

– Có 2 lần vi phạm thực hiện giờ giấc giảng dạy,sinh hoạt chuyên môn, ngoại khoá,…của đơn vị từ 5 phút trở lên (lên lớp muộn hoặc cho lớp nghỉ 5 – 10 phút trở lên so với giờ quy định) không có lý do chính đáng.

– Có 1 lần vi phạm về chấm bài như: Chấm sai, cộng sai, vào điểm sai,… Vi phạm 1 lần quy chế coi thi.

– Có 2 lần chưa hoàn thành nhiệm vụ cố vấn học tập, giáo viên chủ nhiệm lớp (nếu được phân công).

– Có 1 lần không tham gia các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt chuyên đề, các buổi họp, học tập nghị quyết, có 2 lần đi muộn 5 phút trở lên,…(không có lý do chính đáng).

– Thiếu ý thức bảo vệ của công, có hành vi gây mất đoàn kết nội bộ.

– Vi phạm pháp luật (1 lần vi phạm giao thông, gây mất trật tự nơi công cộng, gây mất đoàn kết lối xóm,…), quy định, quy chế của đơn vị, nhà trường.

– Tác phong, thái độ, trong giảng dạy chưa đúng quy định ảnh hưởng đến uy tín của Khoa, của Trường (uống rượu khi lên lớp).

– Vi phạm quy định về nộp điểm, thời gian chấm theo quy định của đơn vị, nhà trường (kể cả chuyên đề, khoá luận,…) muộn từ 3 – 5 ngày. Nếu vi phạm từ 2 lớp sẽ xếp loại B 2 tháng (không có lý do chính đáng).

Điều 8: Cán bộ, công chức xếp loại C là những người trong tháng có 1 trong những vi phạm sau:

1. Đối với khối hành chính

Tuân theo quy định xếp loại cán bộ, công chức của Trường Đại học Tây Bắc hiện hành.

2. Đối với khối giảng dạy

– Bị cơ quan chức năng xử phạt vi phạm hành chính (chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự) do thiếu ý thức chấp hành quy định pháp luật mà lỗi đó ảnh hưởng đến uy tín của khoa, Nhà trường, vi phạm đạo đức nhà giáo, đạo đức cán bộ, công chức.

– Có 2 buổi bỏ dạy hoặc bỏ coi thi không có lý do chính đáng.

– Có 2 lần không chấp hành sự phân công của lãnh đạo đơn vị không có lý do chính đáng.

– Có 3 lần vi phạm thực hiện giờ giấc giảng dạy,sinh hoạt chuyên môn, ngoại khoá…của đơn vị từ 5 phút trở lên (lên lớp muộn hoặc cho lớp nghỉ 5 – 10 phút trở lên so với giờ quy định) không có lý do chính đáng.

– Có 2 lần vi phạm về chấm bài như: Chấm sai, cộng sai, vào điểm sai,… Vi phạm 1 lần quy chế coi thi.

– Có 3 lần chưa hoàn thành nhiệm vụ cố vấn học tập, giáo viên chủ nhiệm lớp (nếu được phân công).

– Có 2 lần không tham gia các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt chuyên đề, các buổi họp, học tập nghị quyết, có 2 lần đi muộn 5 phút trở lên,…(không có lý do chính đáng).

– Thiếu ý thức bảo vệ của công, có hành vi gây mất đoàn kết nội bộ.

– Vi phạm pháp luật (2 lần vi phạm giao thông, gây mất trật tự nơi công cộng, gây mất đoàn kết lối xóm,…), quy định, quy chế của đơn vị, nhà trường.

– Tác phong, thái độ, trong giảng dạy chưa đúng quy định ảnh hưởng đến uy tín của Khoa, của Trường (2 uống rượu khi lên lớp).

– Vi phạm quy định về nộp điểm, thời gian chấm theo quy định của đơn vị, nhà trường (kể cả chuyên đề, khoá luận,…) muộn từ 3 – 5 ngày. Nếu vi phạm từ 3 lớp sẽ xếp loại C của tháng (không có lý do chính đáng).

– Đối với cán bộ giảng dạy tự ý mời người giảng, người nhận giảng ngoài trường hoặc người không thuộc tổ bộ môn giảng hộ không thông qua bộ môn, người không được phân công giảng dạy học phần đó, tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật với hình thức phù hợp.

TRƯỞNG KHOA

Nguyễn Thị Lan Anh

Giao lưu bóng đá nhân dịp Tết BunPiMay