Chuyên mục chính

Thực trạng chuyển giá và giải pháp chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam

Việt Nam là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển chưa toàn diện. Vốn, công nghệ còn thiếu và lạc hậu, dẫn đến sự phát triển kinh tế thiếu bền vững trong môi trường cạnh tranh toàn cầu như hiện nay. Để thu hút các doanh nghiệp (DN) nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu đãi, từ môi trường đầu tư, chính sách thuế cũng như các điều kiện đảm bảo khác nhằm thu hút đầu tư. Trên thực tế, các DN nước ngoài trong thời gian qua đầu tư khá ồ ạt vào Việt Nam. Các dự án FDI đã góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế, khu vực FDI cũng đã và đang bộc lộ những vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thu của ngân sách, đến môi trường cạnh tranh, đó là hiện tượng chuyển giá, trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các DN trong nước, tác động không tốt đến môi trường đầu tư.
Từ khóa: Thực trạng chuyển giá; giải pháp chống chuyển giá; trốn thuế; môi trường đầu tư; cạnh tranh không lành mạnh.

  1. Thực trạng chuyển giá của các DN FDI

Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong Tập đoàn hoặc giữa các Công ty con với nhau hoặc Công ty con với Công ty mẹ trong phạm vi quốc gia hoặc ngoài phạm vi quốc gia không theo giá thị trường, nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty phải nộp cho Nhà nước.

Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết.

1.1. Các chiêu trò chuyển giá của một số DN FDI

Các DN FDI thường sử dụng các chiêu trò, như: Nâng giá hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào cao, hạ giá xuất khẩu xuống thấp, để từ đó báo lỗ hoặc giảm lợi nhuận trên sổ sách (chuyển giá) nhằm trốn nộp thuế, các DN có hiện tượng trên thường phổ biến nhất ở các ngành có nhiều tài sản vô hình là ngành có công nghệ độc quyền, sản xuất các sản phẩm không phổ biến trong nước, nên không có tiêu chí hay cơ sở để so sánh. Theo ông Nguyễn Trọng Hạnh – nguyên Phó Cục trưởng Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Một số DN FDI làm cả 2 đầu là nâng chi phí đầu vào, tìm cách ép giá đầu ra xuống thấp và xuất khẩu hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam qua một nước trung gian (những nước trung gian có thuế suất thấp), sau đó từ công ty nước trung gian đưa hàng hóa vào châu Âu hay châu Mỹ”. Một số DN FDI khác lại dùng “thủ thuật” tìm mọi cách nâng chi phí đầu vào (nâng giá như thiết bị, vật tư, nguyên liệu, định mức tiêu hao vật tư/đơn vị sản phẩm, chi phí phân bổ từ công ty mẹ) để làm lợi nhuận giảm, khi đó DN không có lãi hoặc lãi ít nên không phải nộp hoặc nộp ít thuế thu nhập DN. Cuối cùng là nhóm DN FDI có công ty mẹ ở nước ngoài. Thường các DN này sử dụng cả 2 hình thức nêu trên để thực hiện chuyển giá, do công ty mẹ cung cấp nguyên liệu. Đồng thời, bao đầu ra của sản phẩm, nên việc kiểm soát giá nguyên liệu cũng như giá sản phẩm xuất khẩu sẽ trở nên khó khăn với các cơ quan quản lý của Việt Nam, nhất là các sản phẩm này lại được xuất khẩu sang nước trung gian thứ 3.

1.2. Một số kết quả đầu tư của các DN FDI vào Việt Nam trong những năm qua

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu năm đến thời điểm 26/12/2016, Việt Nam thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài FDI đạt 2.556 dự án cấp phép mới với tổng số vốn đăng ký đạt 15, 182 tỷ USD, tăng 27% về số dự án và giảm 2,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh đó, có 1.225 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5, 765 tỷ USD, tăng 50,5% về số dự án và giảm 19,7% về vốn tăng thêm. Trong năm 2016 có 2.547 DN, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần (với tỷ lệ vốn lớn hơn 50% vốn điều lệ hoặc thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện) với tổng vốn đầu tư là 3, 425 tỷ USD.

Như vậy, tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần trong năm 2016 đạt 24, 372 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2016 ước tính đạt 15, 8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn FDI cao nhất từ trước đến nay. Riêng 9 tháng đầu năm 2017, vốn đầu tư nước ngoài FDI vào Việt Nam đã đạt mức kỷ lục, lên đến 25, 48 tỷ USD, tăng đến 34,3% so với cùng kỳ năm 2016 [1 ](Tags: Cục Đầu tư nước ngoài, điều chỉnh vốn, vốn đầu tư nước ngoài, mua cổ phần, nhà đầu tư nước ngoài).

Tuy nhiên, với sự đầu tư ồ ạt của các DN FDI vào Việt Nam trong những năm gần đây đã nảy sinh một vấn đề rất khó kiểm soát, đó là: Số lượng các DN FDI trong cả nước theo thống kê những năm gần đây thì có tới 50% DN FDI kê khai lỗ, trong đó có nhiều DN thua lỗ liên tục trong nhiều năm liên tiếp (tại thành phố Hồ Chí Minh có tới gần 60% trong số trên 3.500 DN FDI thường xuyên kê khai lỗ trong nhiều năm; Tương tự tại tỉnh Lâm Đồng với 104/111 DN FDI báo cáo lỗ liên tục; tỉnh Bình Dương, một trong những tỉnh thu hút được nhiều dự án FDI, cũng có đến 50% DN FDI báo cáo lỗ từ năm 2006 đến nay,… Mặc dù thua lỗ triền miên, song các DN FDI này vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Điển hình có những biểu hiện “đáng ngờ” về chuyển giá, phải kể đến Công ty Coca -Cola Việt Nam. Trong hơn 20 năm đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30/9/2011 của công ty này đã lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng. Do lỗ liên tục như vậy nên Coca -Cola Việt Nam không phải đóng thuế thu nhập DN, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm,…

Trước hàng loạt dấu hiệu đáng nghi ngờ của các DN FDI. Để ngăn chặn dấu hiệu chuyển giá, chốn thuế của các DN này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2017/NĐCP về quản lý thuế với DN có giao dịch liên kết có hiệu lực từ 1/5/2017. Theo tinh thần của Nghị định này, các nguyên tắc đưa ra để xác định giá giao dịch liên kết như: Phân tích, so sánh với các giao dịch độc lập; Nguyên tắc bản chất quyết định hình thức để xác định đúng bản chất giao dịch liên kết có tính chất tương đồng với các đối tượng so sánh độc lập; Phân tích, so sánh phải đảm bảo tính tương đồng giữa đối tượng so sánh độc lập và giao dịch liên kết; áp dụng phương pháp đối chiếu, rà soát,… đối với các yếu tố so sánh để lựa chọn các đối tượng so sánh độc lập nhằm ngăn ngừa tình trạng chuyển giá của các DN FDI tại Việt Nam.

1.3. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chuyển giá của các DN FDI tại Việt Nam

Sở dĩ có hiện tượng chuyển giá của các DN FDI trong thời gian khá dài mà Việt Nam chưa kiểm soát hết là do:

– Xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá mà họ mong muốn.

– Xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết, nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích và không làm thay đổi lợi ích toàn cục.

– Việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại.

– Do tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế giữa các quốc gia cũng là nguyên nhân dẫn đến sự chuyển giá, nhằm có lợi cho các bên trong nhóm liên kết….

– Một trong những nguyên nhân quan trọng nữa khiến cho việc khó xử lý nạn chuyển giá tại các DN FDI hiện nay, là do khuôn khổ pháp lý chống chuyển giá chưa hoàn thiện. Luật chống chuyển giá vẫn chưa hình thành, ngành thuế chưa có chức năng điều tra DN. Mặt khác, các cơ quan bộ, ngành chưa có phương pháp phối hợp, điều tra và xử lý hiệu quả nên đã vô tình tạo ra lỗ hổng về pháp lý, từ đó các DN FDI chuyển giá ngày càng tinh vi, rất khó phát hiện và không dễ xử lý.

  1. Giải pháp chống chuyển giá đối với các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

Chuyển giá không chỉ làm thất thu ngân sách nhà nước, mà còn tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN. Để hạn chế tình trạng này cần tập trung thực hiện hiệu quả vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý. Trước mắt, Việt Nam cần hoàn thiện hành trang pháp lý về chống chuyển giá và tiến tới ban hành Luật chống chuyển giá; Thu hẹp các ưu đãi về thuế, cụ thể là hạn chế tối đa các chính sách xã hội trong ưu đãi thuế; Chuyển giao quyền điều tra cho cơ quan thuế từ cấp Tổng cục và lâu dài đến cơ quan thuế cấp tỉnh, thành phố; Hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về gười, DN nộp thuế để từ đó theo dõi sát sao những thay đổi về doanh thu, lợi nhuận của các DN.

Thứ hai, kiện toàn bộ máy. Mới đây, Tổng cục Thuế chính thức thành lập Phòng Thanh tra giá chuyển nhượng. Đồng thời, lực lượng thanh tra giá chuyển nhượng được thành lập tại 4 Cục thuế địa phương có nhiều rủi ro liên quan đến giá chuyển nhượng, như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai. Đây là lực lượng chuyên trách làm việc chống chuyển giá tại cơ quan thuế Trung ương đến địa phương, cũng như tiến hành thu thập xử lý thông tin từ các DN có quan hệ liên kết từ cơ quan thuế và bên thứ ba. Vấn đề đặt ra hiện nay là, các cơ quan thuế cần khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đáp ứng được yêu cầu khai thác, phân tích rủi ro và làm căn cứ để xác định giá thị trường đối với giao dịch liên kết. Bởi theo các Cục Thuế địa phương, việc nhận dạng chuyển giá không khó, nhưng quá trình xử lý gặp rất nhiều khó khăn vì chưa có dữ liệu, nên cán bộ thuế vẫn phải làm thủ công, nhặt từng khoản mục để so sánh, đối chiếu.

Thứ ba, áp dụng phương pháp định giá (APA- cơ chế thoả thuận trước về xác định giá). Biện pháp này đang được áp dụng rộng rãi tại châu Âu và nhiều nước trong khu vực như: Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaysia,… Tại Việt Nam, theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật quản lý Thuế, từ 1/7/2013 cơ quan thuế được phép áp APA. Theo cơ chế này, DN đa quốc gia phải chủ động đề xuất biện pháp tính giá hoặc mức giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ giữa các thành viên trong tập đoàn, trước khi kê khai và nộp thuế. Cơ quan thuế sẽ phối hợp với cơ quan thuế nước ngoài đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam tổ chức giám sát, kiểm soát để chống gian lận thuế. Về lý thuyết, APA có thể giúp giảm bớt tình trạng khai gian giá và điệp khúc “lỗ giả, lãi thật” mà dư luận đã nhắc tới ở nhiều DN. Tuy nhiên, chưa chắc DN có vốn nước ngoài đã tự nguyện làm APA. Bởi APA áp dụng trên nguyên tắc tự nguyện, cơ quan thuế không thể ép DN phải thực hiện. Cơ quan thuế cần có cơ chế khuyến khích các DN có giao dịch liên kết áp dụng APA để tránh thanh tra về chuyển giá. Hiện nay, Việt Nam cũng đã ban hành hướng dẫn về APA và đã có một số DN xin áp dụng.

Tuy nhiên, APA cũng là một quá trình phức tạp và mất nhiều thời gian nên chỉ phù hợp với các DN có quy mô lớn và có mô hình kinh doanh ổn định. Mặt khác, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý trong quản lý chuyển giá.

Thứ tư, Chính phủ và các cơ quan chức năng cũng cần rà soát, điều chỉnh theo hướng thu hẹp khoảng cách về các ưu đãi thuế giữa các ngành, lĩnh vực và vùng miền, địa phương. Như đã nêu ở trên, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi chuyển giá là có sự chênh lệch thuế thu nhập DN giữa các quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập DN trong một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế.

Thứ năm, cơ quan thuế các cấp cần tăng cường thanh tra giá chuyển giao, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Thuế. Chú trọng việc thanh tra, kiểm tra giá chuyển giao đối với các DN có nhiều thành viên; các ngành nghề có dấu hiệu rủi ro lớn về thuế do hành vi chuyển giá của DN liên kết, các DN đã và đang thực hiện tái cơ cấu có khả năng lợi dụng chuyển giá để tránh thuế. Đối với các trường hợp chuyển giá, phải có chế tài xử phạt theo hướng tăng mức phạt và hình thức phạt so với quy định hiện tại để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Thứ sáu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông dữ liệu, thông tin về DN FDI trong các cơ quan chức năng của Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ, thông suốt trong kiểm soát chuyển giá của các cơ quan chức năng. Thời gian tới, ngành Thuế, cơ quan cấp phép đầu tư, Hải quan, Công an, Ngân hàng,… cần tăng cường xây dựng cơ sở dữ liệu và kết nối thông tin để có được một hệ thống thông tin đảm bảo cho quá trình quản lý thuế nói chung và hoạt động phân tích rủi ro, thanh tra, xử lý vi phạm về giá chuyển giao giữa các thành viên liên kết nói riêng.

Thứ bảy, tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuế để chuyên theo dõi, kiểm soát chuyển giá, trong đó chú trọng đào tạo về kỹ năng xác định giá thị trường, trang bị kiến thức về kinh tế ngành, kỹ năng tin học, ngoại ngữ,…

Tóm lại, hoạt động chống chuyển giá có thể tác động đến khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong ngắn hạn theo hướng giảm số lượng dự án và vốn đầu tư, song về dài hạn sẽ nâng cao chất lượng thu hút FDI bằng việc hạn chế các nhà đầu tư không hiệu quả và tăng đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài, thu hút được các nhà đầu tư có uy tín, môi trường đầu tư Việt Nam sẽ phát triển theo hướng tích cực, lành mạnh hơn. Đã đến lúc các ngành chức năng, các địa phương cần kiên quyết và quyết liệt hơn nữa trong việc thực hiện các biện pháp đồng bộ chống chuyển giá, để tránh những thua thiệt cho Việt Nam khi thu hút vốn đầu tư từ các DN FDI./.

Tài liệu tham khảo:

– TS. Lê Đăng Doanh: Về chuyển gía, trốn thuế của DN FDI sẽ ngày càng phức tạp – Việt Nam Finance – Báo Mới, tháng 11/2017.

– TS. Nguyễn Thị Thu Hoài: Chuyển giá trong DN FDI: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Tài chính, kỳ 2, tháng 12/2015.

– Báo cáo của Thanh tra thuế về các hành vi vi phạm của các DN FDI.

– Tạp chí Điện tử Tài chính, ngày 18/01/2016 về chống chuyển giá của các DN FDI.

– Ths. Dương văn An: Chuyển giá trong khu vực FDI tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính, tháng 12/2013.

– Các trang báo mạng,…

 

K56 ĐHQTKD: Cảm nghĩ về tuần thực tập tốt nghiệp đầu tiên

Thực hiện kế hoạch đào tạo đã được phê duyệt của nhà trường, vào 8h00 ngày 18/02/2019, tại phòng 102B, Thầy Vũ Quang Hưng – Trưởng bộ môn Quản trị kinh doanh cùng các thầy cô giáo trong bộ môn đã triển khai kế hoạch thực tập tốt nghiệp tới 20 bạn sinh viên lớp K56 ĐHQTKD. Trải qua 2 tuần thực tập tại một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La như: Công ty TNHH đầu tư-Thương mại điện tử Tiến Thành; Chi nhánh Viettel Sơn La; HTX du lịch sinh thái Quỳnh Nhai; Công ty du lịch Tâm Anh Tây Bắc… bước đầu đã mang lại cho các bạn sinh viên lớp K56 ĐH QTKD nhiều trải nghiệm thú vị. Dưới đây là nguyên văn cảm nhận của một số bạn.

“Trong thời gian thực tập tại công ty TNHH đầu tư  – Thương mại điện tử Tiến Thành, em đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ rất nhiều từ phía Giám đốc và các anh chị trong công ty, giúp em có điều kiện thực tập tốt nhất. Mỗi công việc ở nơi thực tập đòi hỏi người sinh viên phải năng động, biết cách áp dụng lý thuyết vào thực tế. Trong thời gian thực tập hơn một tuần tại công ty, em đã được tiếp xúc với hoạt động kinh doanh thực tế, tạo điều kiện nâng cao sự hiểu biết và định hướng nghề nghiệp. Bước đầu thực tập em đã gặp phải không ít khó khăn nhưng sau một thời gian làm quen với môi trường làm việc thực tế và sự giúp đỡ của mọi người trong công ty đã giúp em hoàn thành tốt công việc được giao”.

“Thực tập tại công ty Tiến thành, giúp em rèn luyện bản thân, kỹ năng giao tiếp, tìm được cơ hội để có thể trau dồi kiến thức cũng như được thực hành thực tế như các công việc: kiểm hàng, giao hàng, in các hóa đơn”…….

“Trong thời gian thực tập tại công ty TNHH đầu tư – thương mại Tiến Thành em đã được trau dồi kiến thức cũng như được trải nghiệm thực tế tại công ty như các công việc: Bán hàng chuyên nghiệp hơn, giao hóa đơn đến các đơn vị lớn, kí hợp đồng với các công ty khác, kiểm kê hàng hóa,…….. Với thời gian thực tập hơn 1 tuần em cũng gặp rất nhiều khó khăn, nhưng cũng được sự giúp đỡ tận tình của giám đốc và các anh chị trong công ty và hoàn thành được công việc được giao”.

“HTX du lịch sinh thái Quỳnh Nhai được thành lập từ năm 2016, đến nay đã được 3 năm. Đây là khu du lịch mới và đang phát triển. Em vào Quỳnh Nhai lần thứ 2 rồi, lần một là đi rèn nghề và lần thứ hai em đang thực tập ở HTX du lịch sinh thái Quỳnh Nhai. Từ thành phố Sơn La đến huyện Quỳnh Nhai đi mất khoảng gần 2 tiếng đồng hồ.

một góc lòng hồ sông Đà – Quỳnh Nhai

HTX du lịch sinh thái Quỳnh Nhai có phương tiện di chuyển bằng thuyền 2 tầng thăm quan lòng hồ an toàn, hiện đại, hướng dẫn viên là người bản địa, chuyên nghiệp, trẻ trung, nhiệt tình, chu đáo. Nơi du lịch cũng rất đẹp, bao gồm: suối nước nóng Bản Bon, đảo Trái Tim, cột mốc đánh dấu huyện cũ. Tại đây, em còn được ăn bữa trưa với các món của dân tộc Thái”.

Khách du lịch tham quan lòng hồ và đến đảo trái tim bằng tàu du lịch

Khách du lịch ăn trưa trên đảo trái tim

Trong hơn một tuần thực tập đầu tiên, tuy chỉ là thời gian ngắn ngủi, nhưng đã giúp tôi hiểu được rất nhiều điều trong thực tế. Từ một sinh viên vốn chỉ được những kiến thức qua sách vở qua lý thuyết, nay tôi đã được làm những công việc trong thực tế. Được thực tập tại công ty du lịch Tâm Anh Tây Bắc là một điều vô cùng đáng quý và đáng trân trọng, tôi sẽ luôn ghi nhớ. Trong quãng thời gian thực tập 3 tháng ngắn ngủi này tôi sẽ cố gắng học được thật nhiều điều bỏ ích từ các anh chị trong công ty, để có được hành trang tốt nhất trước khi ra trường và bắt đầu vào công việc mình yêu thích.

Trong thời gian gần 2 tuần thực tập tại CÔNG TY DỊCH VỤ MOBIFONE KHU VỰC 4 – MOBIFONE TỈNH SƠN LA, em và các bạn trong nhóm đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị trong công ty. Ngày đầu tiên đặt chân đến nơi thực tập  bản thân em không tránh khỏi sự bỡ ngỡ, chút rụt rè và lo lắng, tuy nhiên sau một thời gian ngắn em đã vượt qua được các rào cản đó và dần dần thích nghi được với môi trường làm việc thực tế.

Trụ sở Mobifone Sơn La – P. Tô Hiệu tp – Sơn La

Trong thời gian thực tập tại công ty từ vốn hiểu biết ít ỏi của bản thân và những kiến thức học được từ sách vở nay em đã được thực hành những công việc thực tế, em đã được tiếp xúc và tham gia các hoạt động tác nghiệp cùng các anh chị trong đơn vị nơi em đang thực tập. Cũng qua thời gian gần 2 tuần thực tập tại Mobifone giúp em nhận ra là từ lý thuyết tới thực hành là cả một quá trình bản thân mình cần phải học hỏi thêm rất nhiều điều để có được hành trang tốt nhất để bắt đầu vào công việc mới.

Qua 2 tuần đi thực tập tại Công ty dịch vụ Mobifone khu vực 4, Sơn La, mình cũng cảm thấy vui vẻ với sự đón tiếp ấm áp của các anh chị trong công ty. Trong 2 tuần này đoàn thực tập mình được đi trại nghiệm thực tế với công việc như đi bán  Sim, phát tờ rơi, ra hạn Sim … . Dù chỉ một công việc nhỏ nhưng rất có ích vì sau này có thể sử dụng những kinh nghiệm này cho công việc chính của mình.

Nhóm các bạn sinh viên lớp K56 ĐH QTKD thực tập tại Mobifone Sơn La

Hiện tại em đang thực tập tại công ty mobifone khu vực 4 tỉnh sơn la ,em rất cảm ơn các anh chị tại công ty đã giao việc cho em được biết các công việc như: giao tiếp khách hàng, bán hàng, gia hạn sim và còn nhiều các công việc khác nữa. Đây là kinh nghiệm và thành công bước đầu tiên của em .

Công ty dịch vụ MOBIFONE khu vực 4 tỉnh Sơn La – Công ty MOBIFONE nói chung là một công ty lớn ở Việt Nam và có chất lượng cao nói riêng là ở tỉnh Sơn La chỗ em đang thực tập nhân viên công ty có khả năng cao có chất lượng cao các chị em đã giúp đỡ em khi em không biết làm việc, công ty đã cho em biết bán hàng, giao hàng cho em biết làm việc một chút về công ty. Trong việc thực tập hai tuần em đã đi phát tờ rơi, đi bán sim, thẻ, gia hạn sim . Đây là lần đầu tiên của em đã đi thực tập em cảm thấy rất quan trọng.

Em cảm ơn các thầy cô giáo đã tạo điều kiện cho chúng em, các anh chị ở công ty cũng hiền. Các anh chị đã giúp đỡ em nhiều việc trong buổi thực tập, đã dạy em làm việc nhiều thứ mà em chưa làm bây giờ. Qua một tuần em đã thực tập tại công ty mobifone, em đã hiểu nhiều công việc hàng ngày. Sau khi em ra trường em sẽ lấy kinh nghiệm này về sử dụng. Em sẽ cố gắng thực tập và làm việc mà các thầy cô đã giao cho.

Tập thể lớp K56 ĐH QTKD

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kinh tế – tài chính trong nước tuần từ 25/02-01/3/2019

KINH TẾ – TÀI CHÍNH VIỆT NAM Nội dung
Tổng cung  
PMI Lĩnh vực sản xuất của Việt Nam vẫn tăng trưởng chậm trong tháng 2 (dữ liệu thu thập từ ngày 12 – 20/tháng 2). So với tháng 1, PMI đã giảm 0,7 điểm, chỉ còn 51,2 điểm. Tuy sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tăng nhanh hơn nhưng lượng việc làm và tồn kho giảm đã làm cho PMI bị ảnh hưởng. Như vậy, dù vẫn nằm trên ngưỡng trung bình 50 điểm nhưng PMI đã giảm 3 tháng liên tiếp, ở mức thấp nhất kể từ tháng 3/2016. (Theo Nikkei ngày 1/3)
Dịch vụ Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 2/2019 ước đạt hơn 1,58 triệu lượt người, tăng 5,8% so với tháng trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tháng đón lượng khách quốc tế lớn nhất từ trước đến nay, do đang vào mùa lễ hội đầu năm với nhiều sự kiện hấp dẫn thu hút du khách quốc tế.  Tính chung 2 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 3 triệu lượt người, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không tăng 5,5%; đường bộ tăng 29,5%; đường biển giảm 40,7%.

(Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Doanh nghiệp Theo Bảng xếp hạng FAST500 – Top 500 Doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam 2019, giai đoạn 2014 – 2018, tốc độ tăng trưởng doanh thu kép CAGR trung bình của doanh nghiệp FAST500 đạt 38%. Kinh tế tư nhân thể hiện rõ vai trò là nguồn lực tăng trưởng của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng CAGR trung bình đạt 39,6%, vượt xa khu vực nhà nước và FDI.

Kinh tế tư nhân cũng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong FAST500 với 81,4% số doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp lạc quan trước kết quả kinh doanh năm 2018 (85,6% đánh giá doanh thu năm 2018 tăng so với năm 2017, 64,3% nhận định lợi nhuận sau thuế có tăng lên). Gần 70% doanh nghiệp có dự định mở rộng kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo.

(Theo Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam – Vietnam Report – ngày 27/02)

Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam hiện có 1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia được vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Số doanh nghiệp đang hoạt động trong công nghiệp hỗ trợ hiện chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp của ngành công nghiệp chế biến – chế tạo. Như vậy mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam có khoảng 1.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam là khó khả thi.

(Theo Baodautu.vn ngày 26/02)

Tính đến hết ngày 25/02/2019 đã có tổng cộng 1.005 doanh nghiệp công bố báo cáo tài chính quý IV/2018 (chiếm 98% vốn hóa trên 3 sàn). Tổng lợi nhuận ròng cả năm 2018 của các doanh nghiệp đạt khoảng 276,2 nghìn tỷ đồng, tăng 18,9% so với năm 2017. Tuy nhiên nếu loại trừ lợi nhuận đột biến của VHM (tăng gần 13 nghìn tỷ đồng lợi nhuận) thì con số này chỉ là 13,3%. Ngành bất động sản dẫn đầu tăng trưởng lợi nhuận với mức tăng 75%, chủ yếu do lợi nhuận đột biến từ VHM. Nếu loại trừ VHM thì tăng trưởng đạt 22,8%.

(Theo Công ty cổ phần Chứng khoán SSI  ngày28/02)

Tháng 2/2019, cả nước có 5,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 96,3 nghìn tỷ đồng, giảm 41,5% về số doanh nghiệp và giảm 36,3% về số vốn đăng ký so với tháng trước. Tính chung 2 tháng đầu năm nay, cả nước có 15.979 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 247,4 nghìn tỷ đồng, giảm 14,6% về số doanh nghiệp và tăng 25,4% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018.

Bên cạnh đó, có 10.191 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 48,2% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động lên gần 26,2 nghìn doanh nghiệp. Tổng số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, giải thể, phá sản trong 2 tháng đầu năm 2019 lên tới 16.675 doanh nghiệp, bằng 104,36% doanh nghiệp thành lập mới. (Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Tổng cầu  
Đầu tư Trong 2 tháng đầu năm 2019, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đạt 6,25 triệu USD. Trong đó, có 3 dự án thuộc lĩnh vực bán buôn bán lẻ với tổng vốn đầu tư là 5,6 triệu USD, chiếm 89,5% tổng vốn đầu tư; 2 dự án thuộc lĩnh vực hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ và thông tin và truyền thông. Các nước nhận đầu tư của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2019 là Hoa Kỳ, Singapore, Phần Lan, Nhật Bản.

(Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư  ngày 26/02)

Tính từ đầu năm đến ngày 20/2/2019, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là gần 8,471 tỷ USD, tăng hơn 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, cả nước thu hút 514 dự án mới với tổng vốn đăng ký 2,44 tỷ USD, tăng 75,7% so với cùng kỳ năm 2018; 176 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm 854,8 triệu USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2018; 1.039 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp 5,17 tỷ USD, gấp hơn 4 lần so với cùng kỳ 2018 và chiếm 61% tổng vốn đăng ký. Vốn đầu tư nước ngoài đã giải ngân trong 2 tháng đạt 2,58 tỷ USD, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2018. Đây là mức tăng cao nhất của 2 tháng đầu năm trong vòng 3 năm trở lại đây cả về giá trị và tốc độ tăng. (Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư  ngày 26/02)
Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ sung 218,446 tỷ đồng kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn nước ngoài giai đoạn 2016 – 2020 và năm 2018 cho các bộ, ngành và địa phương. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được bổ sung 138,592 tỷ đồng để thực hiện Dự án Hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hóa ngân hàng; Dự án Hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 của 5 địa phương được bổ sung 79,854 tỷ đồng, trong đó Hà Giang 28 tỷ đồng, Hòa Bình 18 tỷ đồng, Quảng Trị 8,454 tỷ đồng, Kon Tum 16,4 tỷ đồng và Trà Vinh 9 tỷ đồng. (Theo baodautu.vn ngày 22/02)
Hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 2/2019 đạt khoảng 390,8 nghìn tỷ đồng, giảm 3% so với tháng 1/2018 nhưng vẫn tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2018. Mặc dù hoạt động bán lẻ và kinh doanh dịch vụ tháng 2/2019 diễn ra sôi động phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên đán,  nhưng tháng 2 chỉ có 28 ngày và thời gian nghỉ Tết kéo dài nên doanh thu hoạt động thương mại dịch vụ trong nước giảm so với tháng trước. Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt khoảng 793,8 nghìn tỷ đồng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,28%.

(Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Xuất – nhập khẩu Hai tháng đầu năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 36,68 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 10,72 tỷ USD, tăng 9,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 25,96 tỷ USD (chiếm 70,8% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 4,3%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam là: điện thoại và linh kiện đạt 6,8 tỷ USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước; hàng dệt may đạt 4,9 tỷ USD, tăng 19%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4,2 tỷ USD, tăng 1,9%.

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 8,1 tỷ USD, tăng 34,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU với 6,3 tỷ USD, tăng 1,2%; Trung Quốc 5,1 tỷ USD, giảm 9,3%;  ASEAN 3,8 tỷ USD, tăng 3,5%;  Nhật Bản 3,2 tỷ USD, tăng 17,3%; Hàn Quốc 3,1 tỷ USD, tăng 10,1%.

(Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản trong tháng 1/2019 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, bằng 90,4% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, giá trị xuất khẩu nhóm hàng nông sản chính ước đạt 1,55 tỷ USD, bằng 82,8% so với cùng kỳ năm 2018. Giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 2,57 tỷ USD, giảm 6,8% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, nhập khẩu mặt hàng phân bón, thuốc trừ sâu và các nông sản chính khoảng 2,19 tỷ USD, giảm 6%.

(Theo vneconomy.vn  ngày 26/02)

Tổng cục Hải quan cho biết, trong tháng đầu năm 2019, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Canada đạt 379 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 317 triệu USD, tăng 33,83% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu đạt 62,62 triệu USD, tăng 6,85% so với tháng 1/2018. Việt Nam đã xuất siêu sang Canada trên 250 triệu USD.

(Theo Báo vov.vn  ngày 27/02)

Tổng cục Hải quan cho biết, Việt Nam đã xuất khẩu được 486.712 tấn dầu thô trong tháng 1/2019, tương đương 225,79 triệu USD, tăng 39% về lượng, tăng 49% về kim ngạch so với tháng 12/2018; tăng 26% về lượng, tăng 10% về kim ngạch so với tháng 1/2018.

Mức giá xuất khẩu dầu thô đạt trung bình 463,9 USD/tấn, tăng 7,4% so với tháng 12/2018 nhưng giảm 12,5% so với tháng 1/2018. Thái Lan là thị trường nhập khẩu dầu thô lớn nhất của Việt Nam trong tháng đầu tiên của năm 2019, chiếm tỷ trọng 41% (199.349 tấn), kim ngạch gần 94,35 triệu USD, tăng 81,8% về lượng và tăng 88,3% về kim ngạch so với tháng 12/2018; tăng 185% về lượng và tăng 146,7% về kim ngạch so với tháng 1/2018. (Theo Baocongthuong.vn ngày 23/02)

Năm 2019, ngành thủy sản đặt mục tiêu đạt sản lượng nuôi cá tra 1,51 triệu tấn, tăng 6,6% so với năm 2018; kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2,4 tỷ USD, tăng 12% so với năm 2018. Tuy nhiên, năm 2019 các thị trường xuất khẩu cá tra chủ lực của Việt Nam như Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU… được đánh giá có nhiều yếu tố thuận lợi, do vậy, xuất khẩu cá tra có thể đạt kim ngạch 2,5 tỷ USD. (Theo baohaiquan.vn ngày 26/02)
Tháng 2/2019, lượng cao su xuất khẩu đạt 51 nghìn tấn, trị giá 76 triệu USD, giảm 61,8% về lượng và 61% trị giá so với tháng 1/2019. Đây là tháng thứ hai liên tiếp kể từ đầu năm 2019, xuất khẩu cao su giảm nhưng tăng 18,2% về lượng và 2,9% trị giá so với tháng 2/2018. Tính chung 2 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu cao su đạt khoảng 186 nghìn tấn, trị giá 274 triệu USD. (Theo baocongthuong.vn  ngày 25/02)
Tổng cục Hải quan cho biết, trong giai đoạn 2010 – 2018, giá trị thương mại hàng hóa Việt Nam – Hoa Kỳ đã tăng gấp 3 lần, từ 18,01 tỷ USD (năm 2010) lên 60,28 tỷ USD trong năm 2018; tốc độ tăng kim ngạch xuất – nhập khẩu giữa hai nước bình quân đạt 16,3%/năm; tốc độ tăng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ bình quân đạt 16,3%/năm, từ 14,24 tỷ USD trong năm 2010 lên đến 47,53 tỷ USD trong năm 2018. Tốc độ tăng của hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng tăng bình quân 16,5%/năm, từ 3,77 tỷ USD (năm 2010) lên 12,75 tỷ USD (năm 2018). Cán cân thương mại hàng hóa Việt Nam với Hoa Kỳ trong năm 2018 thặng dư gần 34,8 tỷ USD, bằng 73,2% trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. (Theo thoibaotaichinh.vn ngày 28/02)
Cân đối vĩ mô  
Lạm phát – Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 2/2019 CPI tháng 2/2019 tăng 0,8% so với tháng 1/2019 và tăng 2,64% so với cùng kỳ năm 2018, do nhu cầu tiêu dùng tăng trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi. CPI bình quân 2 tháng đầu năm 2019 tăng 2,6% so với bình quân cùng kỳ năm 2018. Có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tháng 2 tăng so với tháng trước.

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất với 1,73%. Tiếp theo là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,69%. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,66%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,35%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,26%. Lạm phát cơ bản tháng 2/2019 tăng 0,48% so với tháng trước và tăng 1,82% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản 2 tháng đầu năm 2019 tăng 1,82% so với cùng kỳ năm trước.

(Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Giá vàng Trong tuần qua, giá vàng có 1 ngày tăng giá, 4 ngày giảm giá và 1 ngày giá không đổi. Trong phiên giao dịch ngày 02/3 so với ngày 02/3 giá vàng miếng SJC được niêm yết tại một số doanh nghiệp kinh doanh vàng:

– Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn: 6,55 – 36,75 triệu đồng/lượng, giảm 200 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua vào và bán ra.

– Công ty Doji: 36,59 – 36,69 triệu đồng/lượng, giảm 210 nghìn đồng/lượng ở chiều mua vào và giảm 230 nghìn đồng/lượng chiều bán ra

Tỷ giá Tính chung tuần qua, tỷ giá trung tâm tăng 17 đồng so với tuần trước với 2 ngày tăng giá, 3 ngày giảm giá và 1 ngày không thay đổi. Trong phiên giao dịch ngày 02/3, tỷ giá trung tâm 22.923 đồng, không đổi so với ngày 01/3; tỷ giá USD tại một số ngân hàng thương mại không có nhiều thay đổi so với ngày 01/3 như sau:

– Vietcombank và Techcombank: 23.150 – 23.250 VND/USD, không đổi.

– BIDV: 23.150 – 23.250 VND/USD, giảm 5 đồng ở mỗi chiều.

Tín dụng Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến cuối năm 2018, thống tổ chức tín dụng đã cho vay trong lĩnh vực lúa gạo khoảng 99 nghìn tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2017. Đến cuối tháng 1/2019, dư nợ cho vay lúa gạo của toàn ngành ngân hàng đạt khoảng 100 nghìn tỷ đồng. Trong đó, cho vay sản xuất lúa khoảng 23 nghìn tỷ đồng; cho vay thu mua, tiêu thụ lúa gạo khoảng 63 nghìn tỷ đồng và cho vay chế biến, bảo quản lúa gạo khoảng 14 nghìn tỷ đồng. (Theo Thoibaonganhang.vn  ngày 26/02)
Thị trường tài sản  
Trái phiếu Trong phiên đấu thầu ngày 27/02, Kho bạc Nhà nươc (KBNN) gọi thầu 4.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP) và huy động thành công 3.950 tỷ đồng, với các kỳ hạn như sau:

– TPCP kỳ hạn 7 năm huy động được 100 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu 4,05%/năm, bằng lãi suất trúng thầu phiên trước đó (ngày 13/2/2019).

– TPCP kỳ hạn kỳ hạn 10 năm huy động thành công 2.500 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu 4,7%/năm, bằng lãi suất trúng thầu phiên trước đó (ngày 13/2/2019).

– Phiên thầu phụ kỳ hạn 10 năm gọi thầu 1.250 tỷ đồng, huy động được 1.250 tỷ đồng với lãi suất 4,7%/năm.

– TPCP kỳ hạn 30 năm huy động được 100 tỷ đồng với lãi suất trúng thầu 5,79%/năm, bằng lãi suất trúng thầu phiên trước đó (ngày 13/2/2019).

Từ đầu năm 2019, KBNN đã huy động được 55.193,5 tỷ đồng thông qua đấu thầu TPCP tại HNX.

(Theo baonhandan.com.vn  ngày 28/02)

  Ủy ban Chứng khoán Nhà nướccho biết, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại thời điểm cuối năm 2018 là 474.500 tỷ đồng, bằng 8,6% GDP năm 2018, tăng 53% so với cùng kỳ năm 2017. Hầu hết các thương vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp đều được thực hiện dưới hình thức phát hành trái phiếu riêng lẻ với khối lượng đăng ký phát hành là 427.000 tỷ đồng, khối lượng phát hành thành công là 224.000 tỷ đồng, tăng 94,5% so với năm 2017. (Theo Thoibaotaichinh.vn  ngày 25/02)
Cổ phiếu Trong tuần từ ngày 25/02 – 01/3/2019:

– VN-Index: có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, VN-Index tăng 14,16 điểm (+1,47%), đứng ở mức 979,63 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 226,64 triệu đơn vị/ngày, tăng 14,27% so với tuần trước. Tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 5.001,66 triệu đơn vị/ngày, tăng 8,97% so với tuần trước.

– HNX-Index có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, HNX-Index tăng 1,4 điểm (+1,32%) lên 107,26 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 50,1 triệu đơn vị/phiên, tăng 41,55% so với tuần trước.

Tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 700,26 triệu đơn vị/ngày, tăng 42,56% so với tuần trước.

– Upcom-Index có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, UPCoM-0,56 điểm (+1,01%) lên 55,68 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 14,8 triệu đơn vị/ngày, giá trị 305,5 tỷ đồng.

Trong tuần qua, khối ngoại đã bán ròng 50,61 triệu đơn vị, tăng gần 185% so với tuần trước. Tổng giá trị bán ròng 1.183,4 tỷ đồng (trong khi tuần trước mua ròng 45,24 tỷ đồng).

– HOSE: Khối ngoại thực hiện 2 ngày mua ròng và 3 ngày bán ròng với tổng khối lượng bán ròng 10,03 triệu đơn vị, tổng giá trị tương ứng 349,64 tỷ đồng (trong khi tuần trước mua ròng 8,26 triệu đơn vị, tổng giá trị mua ròng tương ứng 540,47 tỷ đồng).

– HNX: Khối ngoại thực hiện 3 ngày mua ròng và 2 ngày bán ròng  với tổng khối lượng bán ròng 40,68 triệu đơn vị, tổng giá trị tương ứng 867,78 tỷ đồng (trong khi tuần trước đó mua ròng 1,98 triệu đơn vị, tổng giá trị mua ròng 55,41 tỷ đồng).

– UPCoM: Khối ngoại mua ròng 5 phiên liên tiếp với tổng khối lượng 103.900 đơn vị, tổng giá trị 34,02 tỷ đồng (trong khi tuần trước đó bán ròng gần 28 triệu đơn vị, tổng giá trị bán ròng tương ứng 550,64 tỷ đồng).

Đàm phán – Ký kết Ngày 27/02, trong buổi hội đàm nhân chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ tới Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ – Triều Tiên lần hai, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Donal Trump đã chứng kiến lễ ký kết các văn kiện hợp tác.

Theo đó, Hãng hàng không Bamboo Airways (thuộc tập đoàn FLC) đã ký thỏa thuận mua 10 máy bay thân rộng Boeing 787-9 Dreamliner trị giá gần 3 tỷ USD với Tập đoàn Boeing (Hoa Kỳ). Hãng hàng không Vietjet cũng ký hợp đồng mua 100 tàu bay Boeing 737 Max với giá trị 12,7 tỷ USD, đồng thời ký kết thỏa thuận về dịch vụ dài hạn bảo dưỡng động cơ máy bay với Tập đoàn GE trị giá 5,3 tỷ USD…

(Theo Vneconomy.vn ngày 27/02)

Nhận định

chuyên gia

TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính – ngân hàng:

Nguồn tiền huy động của ngành Ngân hàng Việt Nam chủ yếu là ngắn hạn, nếu đem cho vay trung, dài hạn với tỷ lệ cao sẽ dẫn đến rủi ro về thanh khoản. Vì vậy cần giảm dần tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung – dài hạn xuống 30%, thậm chí xuống 20% (hiện nay là 40%). Để làm việc này cần có thời gian và lộ trình để các ngân hàng có sự chuẩn bị, có thể trong khoảng 2 – 3 năm. (Theo infomoney.vn ngày 28/02)

Kinh tế – tài chính quốc tế tuần từ 25/02-01/3/2019

KINH TẾ – TÀI CHÍNH THẾ GIỚI Nội dung
Châu Âu Anh:

– Sản lượng xe mới trong tháng 01/2019 tại nước Anh đạt 120.649 chiếc, giảm 18,2% – tháng giảm thứ 8 liên tiếp, do sự thay đổi các mẫu xe và nhu cầu yếu tại Anh cũng như các thị trường xuất khẩu lớn (lượng xe xuất khẩu giảm 21,4%). Ngành công nghiệp ô tô đang đối mặt với nhiều thách thức từ sự sụt giảm nhu cầu tại các thị trường chủ chốt, tình trạng leo thang căng thẳng thương mại toàn cầu, cho đến yêu cầu phải đi đầu trong phát triển công nghệ tương lai.

Trong đó nguy cơ kịch bản Brexit không đạt được thỏa thuận có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với ngành sản xuất ô tô châu Âu. Dự báo doanh số bán ô tô tại Anh sẽ giảm 2% trong năm 2019 do niềm tin của người tiêu dùng thấp và các tác động bất lợi từ sự kiện Brexit. (Theo Hiệp hội các nhà chế tạo và buôn bán ô tô Anh  – SMMT  ngày 28/02)

– Anh đã đạt được thỏa thuận tiếp tục ở lại trong Hiệp định Mua sắm Chính phủ (GPA) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau khi nước này rời khỏi Liên minh châu Âu (EU). Anh là một thành viên ký GPA và có quyền tiếp cận thị trường mua sắm công trị giá 1.700 tỷ USD.

Được ký kết vào năm 1994, GPA – bao gồm các nền kinh tế lớn như EU, Hoa Kỳ, Canada và Nhật Bản – hướng tới mở cửa nhiều nhất có thể các thị trường mua sắm công và cho phép cạnh tranh nước ngoài trong các dự án chính phủ, đảm bảo mua sắm trở nên minh bạch. (Theo Chính phủ Anh ngày 27/02)

– Niềm tin tiêu dùng ở Anh tháng 02/2019 đã tăng từ -14 điểm trong tháng 01/2019 lên -13 điểm và cao hơn mức kỳ vọng của thị trường là -15 điểm, nhờ sự hỗ trợ của niềm tin đối với việc làm và tiền lương. (Theo Công ty GfK NOP ngày 28/02)

Châu Á Thái Lan:

– Ủy ban Đầu tư Thái Lan (BoI) đã phê duyệt 5 dự án đầu tư với tổng trị giá 40,462 tỷ THB (gần 1,3 tỷ USD), được triển khai trong khu vực Hành lang Kinh tế phía Đông (EEC). Đề án đầu tư lớn nhất đến từ nhà đầu tư Trung Quốc với tổng mức đầu tư dự kiến 10,061 tỷ THB (322 triệu USD) để triển khai dự án sản xuất lốp ô tô ở tỉnh Chon Buri; tiếp đến là dự án của hãng sản xuất lốp ô tô General Rubber, với tổng giá trị 9,721 tỷ THB (hơn 310 triệu USD); dự án xây dựng trung tâm bảo dưỡng, sửa chữa, đại tu máy bay ở tỉnh Rayong của liên doanh Thai Airways với một công ty nước ngoài trị giá 6,468 tỷ THB (206 triệu USD); dự án của hãng hàng không giá rẻ Thai Lion trị giá 6,968 tỷ THB (223 triệu USD); dự án của công ty sản xuất phụ tùng ô tô AW Thailand ở tỉnh Chon Buri, trị giá 7,244 tỷ THB (232 triệu USD). (Theo truyền thông Thái Lan ngày 26/02)

– Tỷ lệ thất nghiệp ở Thái Lan trong tháng 01/2019 đã giảm 0,3% xuống còn 1% so với cùng kỳ năm 2018. Số người thất nghiệp giảm 85 nghìn so với năm 2018 xuống còn 390 nghìn người, trong khi số người có việc làm tăng 430 nghìn người lên 37,50 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp ở Thái Lan trung bình đạt 1,43% trong giai đoạn 2001 – 2018, mức cao nhất lịch sử là 5,73% vào tháng 01/2001 và mức thấp kỷ lục là 0,39% vào tháng 11/2012. (Theo Ngân hàng Thái Lan ngày 26/02)

– Chỉ số PMI sản xuất Thái Lan tháng 02/2019 đã giảm xuống 49,9 điểm từ 50,2 điểm trong tháng 01/2019, ghi nhận mức yếu nhất trong 3 tháng qua, do việc làm tiếp tục giảm tháng thứ năm liên tiếp; các nhà sản xuất trở nên thận trọng hơn về mức tồn kho, cắt giảm mua hàng đầu. Dự báo trong thời gian tới, chỉ số PMI được cải thiện nhờ gia tăng doanh số, chiến lược tiếp thị mới phát huy hiệu quả và việc cung cấp sản phẩm được mở rộng hơn.

(Theo Nikkei ngày 01/3)

Ấn Độ:

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi ngày 23/02 đã công bố tầm nhìn đưa Ấn Độ trở thành nền kinh tế quy mô 10.000 tỷ USD, lớn thứ 3 thế giới, đồng thời bày tỏ mong muốn nước này sẽ có vô số những công ty khởi nghiệp và dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực ô tô điện.

Ấn Độ vượt qua hàng loạt khó khăn kinh tế như lạm phát vượt kiểm soát và thâm hụt tài khoản vãng lai gia tăng, qua đó đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,4%, cao nhất thời hậu tự do hóa, lạm phát ở mức thấp nhất dưới 4,5%. Bên cạnh đó, những cải cách về thuế hàng hóa và dịch vụ đã tạo nền tảng vững chắc thúc đẩy tăng trưởng GDP. (Theo Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi ngày 23/02)

Hàn Quốc:

Tháng 01/2019, sản xuất công nghiệp ở Hàn Quốc đã tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2018, thấp hơn so với mức tăng 0,7% của tháng 12/2018 và 1% theo dự báo của thị trường. Tính theo tháng, sản lượng công nghiệp tăng 0,5%, cao hơn mức giảm 0,8% trong tháng 12/2018 và mức dự báo 0,2% của thị trường.

(Theo Tổng cục Thống kê Hàn Quốc ngày 28/02)

Châu Úc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Australia (RBA) vừa công bố mẫu tờ tiền 20 AUD mới với những thay đổi lớn trong thiết kế chống làm giả. Mẫu tiền này dự kiến sẽ được phát hành trên toàn quốc vào tháng 10/2019.

Tờ 20 AUD mới có một số chi tiết nổi bật để “nâng cao tính an toàn và dễ nhận diện”: Miếng polymer trong suốt có chứa các đặc tính động chẳng hạn như hình ảnh chim kookaburra chuyển động cánh và thay đổi màu sắc có thể quan sát được khi nhìn nghiêng tờ tiền; sử dụng kỹ thuật ‘microprint’ (chữ in rất nhỏ) nhằm chống làm giả; thiết kế với ba đường in nổi ở gần hai cạnh dài của tờ tiền nhằm giúp người khiếm thị dễ dàng phân biệt với những tờ tiền khác. Sau tờ 20 AUD, RBA sẽ phát hành tờ 100 AUD mới vào năm 2020. (Theo TTXVN ngày 23/02)

Hoa Kỳ Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Kinh tế kinh doanh quốc gia Hoa Kỳ (NABE) đối với 281 thành viên từ ngày 30/01 – 08/02, khoảng 86% số nhà kinh tế cho rằng, việc áp thuế đối với mặt hàng ô tô nhập khẩu có thể tác động đến nền kinh tế Hoa Kỳ.

Bên cạnh đó, các nhà kinh tế cũng lo ngại mức thuế quan hiện nay mà Hoa Kỳ đang áp dụng với các mặt hàng nhập khẩu, có có tới 36% số ý kiến được hỏi cho rằng nếu vẫn duy trì mức thuế quan hiện nay thì tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ trong năm 2019 sẽ giảm 25 điểm cơ bản (0,25 điểm phần trăm), trong khi 26% dự đoán tăng trưởng GDP giảm 50 điểm cơ bản (0,5 điểm phần trăm). (Theo NABE ngày 25/02)

Gần một nửa các nhà kinh tế học kinh doanh tại Hoa Kỳ được khảo sát nhận định rằng nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ rơi vào suy thoái vào cuối năm 2020; 10% cho biết suy thoái kinh tế có thể ngay trong nửa đầu năm 2019; 11% cho rằng có thể tránh khỏi suy thoái qua năm 2021.

Kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu đà tăng trưởng từ tháng 6/2009, khi cuộc đại suy thoái chính thức chấm dứt. Đà tăng trưởng nếu kéo dài qua tháng 6/2019 thì kinh tế Hoa Kỳ sẽ lập nên một kỷ lục về khoảng thời gian tăng trưởng. Nhiều nhà kinh tế học nhận định tốc độ tăng vừa phải hơn 2% thường niên đã góp phần kéo dài đà tăng trưởng đi lên của Hoa Kỳ. (Theo NABE ngày 25/02)

Văn phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ ngày 27/02 tuyên bố sẽ chính thức đình chỉ việc tăng thuế đối hàng hóa Trung Quốc cho tới khi có thông báo mới, sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump quyết định hoãn hạn chót ngày 01/3 để đạt được thỏa thuận thương mại Hoa Kỳ – Trung Quốc trong bối cảnh đàm phán giữa hai nước có nhiều tiến triển. Hiện tổng lượng hàng hóa bị đánh thuế cao của hai nước đã lên tới hơn 360 tỷ USD. Nếu giới chức hai nước không đạt được giải pháp cho cuộc chiến thương mại, Hoa Kỳ sẽ tăng mức thuế từ 10% hiện nay lên 25% đối với lượng hàng hóa Trung Quốc trị giá 200 tỷ USD. (Theo Reuters ngày 28/02)
Tốc độ tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ đạt 2,9%, tăng 2,2% so với năm 2017 và gần bằng mức tăng trưởng mục tiêu được Tổng thống Donald Trump đặt ra. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 13 năm qua. Văn phòng Ngân sách Quốc hội Hoa Kỳ tháng 01/2019 dự báo Hoa Kỳ sẽ đạt mức tăng trưởng 2,3% trong năm 2019, do chính sách cắt giảm thuế thực hiện vào năm 2017, cũng như việc cắt giảm dần các biện pháp kích thích tài chính. (Theo Bộ Thương Mại Hoa Kỳ ngày 27/02)
Trung Quốc Chỉ số PMI của Trung Quốc trong tháng 02/2019 giảm từ 49,5 điểm (tháng 01/2019) xuống 48,2 điểm, báo hiệu sự sụt giảm của hoạt động sản xuất, do đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cùng với nhu cầu trong nước suy giảm. Đây là tháng thứ ba liên tiếp chỉ số này giảm và là lần đầu tiên hoạt động sản xuất của Trung Quốc sụt giảm kể từ tháng 01/2009, thời điểm toàn cầu chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính. (Theo Cơ quan Thống kê quốc gia Trung Quốc ngày 28/02)
 

Nhật Bản

Chính phủ Nhật Bản đã tán thành kế hoạch ký kết thỏa thuận thương mại tự do (FTA) sửa đổi với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bao gồm cả việc tự do hóa lĩnh vực dịch vụ và đầu tư. FTA giữa các thành viên ASEAN, đối tác thương mại lớn của Nhật Bản ở châu Á sau Trung Quốc, sẽ có hiệu lực tại các nước đã hoàn tất các thủ tục nội bộ.

Nhật Bản sẽ ký hiệp định này vào ngày 27/02 và trình lên Quốc hội thông qua trong mùa Thu này. Trong khi đó, các nước ASEAN dự kiến bắt đầu ký kết từ ngày 02/3 tới. Nhật Bản cũng đã ký các FTA song phương với 7 nước ASEAN gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, nhưng chưa ký với Myanmar, Lào và Campuchia. (Theo Chính phủ Nhật Bản ngày ngày 26/02)

Sản xuất công nghiệp tại Nhật Bản tháng 01/2019 đã giảm 3,7% so với tháng 12/2018, cao hơn mức giảm 0,1% so theo tháng của tháng 12/2018 và 2,5% của thị trường. Đây là mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 01/2018, chủ yếu do xe cơ giới giảm 8,6%; máy móc chạy bằng điện, thiết bị điện tử thông tin và truyền thông giảm 9,9%; máy móc sản xuất giảm 9,8%. (Theo Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản ngày 28/02)
Chứng khoán – Chứng khoán Hoa Kỳ: Trong tuần từ ngày 25/02 – 01/3/2019, chỉ số Dow Jones giảm 0,02%; S&P 500  và Nasdaq Composite tăng lần lượt 0,39% và 0,9%, so với chốt phiên giao dịch cuối tuần trước (22/02/2019). Trong ngày giao dịch 01/3/2019:

+ Dow Jones tăng 110,32 điểm (+0,43%) lên 26.026,32 điểm.

+ S&P 500 S&P 500 tăng 19,20 điểm (+0,69%) lên 2.803,69 điểm.

+ Nasdaq Composite tăng 62,82 điểm (+0,83%) lên 7.595,35 điểm.

– Chứng khoán châu Á: Tính chung cả tuần, MSCI châu Á – Thái Bình Dương giảm 0,48 điểm (-0,31%). Trong ngày giao dịch cuối tuần (01/3/2019) so với phiên giao dịch hôm trước, các chỉ số:

– Nikkei 225 (Nhật Bản) tăng 217,53 điểm (+1,02%) lên 21.602,69 điểm.

– Shanghai Composite (Thượng Hải) tăng 53,05 điểm (+1,80%) lên 2.994,00 điểm.

– Hang Seng (Hồng Kông) tăng 178,99 điểm (+0,63%) lên 28.812,17 điểm.

Dầu mỏ Khối lượng khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) được giao dịch trên toàn cầu sẽ tăng 11% lên 354 triệu tấn trong năm 2019, khi các cơ sở sản xuất mới đi vào hoạt động sẽ tăng nguồn cung cho châu Âu và châu Á. Châu Á tiếp tục là khu vực chiếm lĩnh thị trường, Nhật Bản tiếp tục là nước tiêu thụ khí đốt tự nhiện hóa lỏng hàng đầu thế giới và Trung Quốc đứng thứ hai. (Theo Tập đoàn Royal Dutch Shell ngày 26/02)
Trong tuần kết thúc vào ngày 22/02, các kho dự trữ dầu thô của Hoa Kỳ giảm 8,647 triệu thùng, từ mức tăng 3,672 triệu trong tuần trước đó. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ tuần kết thúc vào ngày 06/7/2018. Trong khi đó, tồn kho xăng giảm 1,906 triệu thùng, sau khi giảm 1,454 triệu trong tuần trước đó.

(Theo Cơ quan Thông tin năng lượng Hoa Kỳ – EIA  ngày 28/02)

Xuất khẩu dầu thô của Venezuela đã giảm 40% trong tháng 01/2019, từ 1,66 triệu thùng/ngày xuống còn 920.000 thùng/ngày, do tác động của các biện pháp trừng phạt mới mà Hoa Kỳ đưa ra hồi đầu năm 2019 nhằm gây sức ép đối với Chính phủ của Tổng thống Nicolas Maduro. Khoảng 70% số lượng dầu thô xuất khẩu của Venezuela hiện nay được chuyển cho các khách hàng ở châu Á, trong đó đối tác lớn nhất là Ấn Độ, tiếp đến là Singapore và Trung Quốc; ngoài ra là cac thị trường tại châu Âu, Hoa Kỳ, khu vực Caribe…

(Theo Tập đoàn dầu khí quốc gia Venezuela PDVSA ngày 28/02)

Tuần từ ngày 25/02 – 01/3/2019, giá dầu WTI và Brent giảm lần lượt 2,55% và 1,65%. Chốt phiên giao dịch cuối tuần (01/3/2019), giá dầu thô kỳ hạn:

– Dầu WTI của Hoa Kỳ giảm 1,42 USD (-2,54%) xuống 55,80 USD/thùng.

– Dầu Brent giảm 0,02 USD (-0,03%) xuống 66,01 USD/thùng.

Vốn chứng khoán cần được ưu tiên phát triển

Tại hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) cuối tuần qua, nhiều thành viên thị trường cho rằng cần xây dựng thể chế đủ mạnh để chứng khoán thực sự cạnh tranh với ngân hàng (NH) và là nơi cung cấp vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế; có các giải pháp về sản phẩm mới để TTCK thu hút hơn nữa NĐT tham gia…

Thị trường chứng khoán cần thể chế đủ mạnh 

Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng, hiện nay tổng tín dụng được cấp qua kênh NH khoảng 7,5 triệu tỷ đồng, tương đương 130% GDP. Điều đó cho thấy, nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp dựa rất lớn vào hệ thống NH, trong khi bản chất nhà băng là nơi cung cấp vốn ngắn hạn, đã tạo áp lực rất lớn cho hệ thống NH trong cung ứng vốn dài hạn, cân đối vốn và xử lý nguồn vốn để tránh rủi ro kỳ hạn.

Vì thế, trong thị trường vốn, rất cần phát triển thị trường trái phiếu DN (TPDN). Bình luận về việc năm 2018 HOSE đã cấp quyết định niêm yết chính thức cho 14 TPDN, nâng khối lượng TPDN được đưa vào giao dịch tăng khoảng 70% so với năm 2017, bà Hồng cho rằng đây là điều rất đáng mừng, vì sẽ giảm áp lực cho NHNN trong việc ung ứng vốn trung, dài hạn, từ đó góp phần thúc đẩy thị trường tài chính phát triển lành mạnh.

Là một trong những người đóng góp xây dựng TTCK từ những ngày đầu, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc CTCK SSI, ông Nguyễn Duy Hưng trăn trở về vấn đề làm sao xây dựng các thể chế giúp TTCK có thể cạnh tranh với NH, làm sao để cân bằng giữa thị trường vốn và tiền tệ, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn.

Để làm được điều đó TTCK phải được NĐT quan tâm. Điều quan trọng, với thị trường là phải minh bạch, với nhà đầu tư (NĐT) phải có niềm tin, có quyền lợi khi tham gia thị trường.

Và để TTCK phát triển song song với NH, phải xây dựng thể chế để cạnh tranh trực tiếp với NH. Quy mô TTCK hiện tại ở mức 3 triệu tỷ đồng, nhưng con số này là vốn hóa thị trường, còn phần tài sản thật thấp hơn rất nhiều. Toàn bộ TPDN hiện khoảng 100.000 tỷ đồng, nhưng chỉ tập trung một số DN như Massan, Vingroup, Hoàng Anh Gia Lai… Và những đối tượng giữ TPDN lại là NH.

Một trong các giải pháp, theo ông Hưng, cần xây dựng các rổ chỉ số linh động hơn, cho phép các định chế tài chính trung gian được tham gia xây dựng chỉ số. Với hàm ý để các tổ chức tự xây dựng chỉ số cung cấp cho NĐT, ông Hưng cho rằng điều này sẽ giúp các chỉ số gắn với thị trường hơn và các sở giao dịch chứng khoán chỉ nên giữ vai trò xét duyệt.

Về NĐT, vấn đề của họ trên TTCK Việt Nam là nhỏ lẻ. Vì vậy cần hướng dòng tiền của họ đến các quỹ đầu tư chỉ số trung gian. Về nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN), ông Hưng nhấn mạnh họ không sợ thua lỗ mà muốn có môi trường đầu tư công bằng và minh bạch; phải làm sao hài hòa được họ. 

Trong khi đó, ông Dominic Scriven, Chủ tịch Dragon Capital, cho biết ở các thị trường phát triển, tỷ trọng NĐT tổ chức tham gia chiếm 50-70%, còn lại là NĐT cá nhân. Tuy nhiên, Việt Nam có tình trạng ngược lại. TTCK thiếu các tổ chức, DN tham gia và bị ảnh hưởng bởi quyết định của NĐT cá nhân, đồng thời cũng gây khó khăn cho các NĐT này, khiến thị trường thiếu ổn định. 

Xem xét lại khái niệm nhà đầu tư nước ngoài

Theo ông Dominic Scriven, cần xem xét các vấn đề liên quan đến tỷ lệ sở hữu của khối ngoại chiếm 80%, những ý kiến bức xúc của NĐTNN, MSCI với chứng khoán Việt Nam và ảnh hưởng đến việc nâng hạng thị trường.

TTCK vẫn là nơi NĐT mua vào, rút ra nhanh để kiếm tiền, nhưng chưa tạo được niềm tin giúp họ thấy rằng TTCK là nơi đầu tư, giữ tiền, tài sản. Đồng thời các DN hiện nay cũng chưa đồng hành cùng NĐT, coi họ là chủ thực sự mà chỉ coi NĐT là nơi hút tiền để làm việc của DN. Đã có nhiều thương vụ xảy ra khi đi huy động vốn ở nước ngoài, một số NĐT phản ánh việc DN sau khi huy động vốn xong không đồng hành và coi họ là máy ATM, thích rút tiền lúc nào thì rút.

Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc SSI 

Một trong những kiến nghị được ông Dominic Scriven nêu ra là Chính phủ cần xem xét lại Điều 23 của Luật Đầu tư, liên quan đến việc DN Việt Nam có sở hữu nước ngoài trên 51% được xem là DN ngoại. Đây là điều không phù hợp, tạo ra cạnh tranh không công bằng cho các DN. Vì thế, điều khoản này cần phải được sửa đổi phục vụ cho nhu cầu đồng bộ hóa pháp luật Việt Nam. 

Về các giải pháp thu hút vốn ngoại khác, ông Dominic Scriven cũng đề xuất có thể cho phép room ngoại tại các tổ chức tín dụng nâng từ 30% lên 49%, trong bối cảnh nhiều NH đang nỗ lực tăng huy động vốn theo Basel II; sớm nghiên cứu và đưa vào loại hình chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết theo mô hình của Thái Lan hoặc Malaysia; thực hiện phương pháp dựng sổ trong việc thoái vốn nhà nước và đẩy mạnh bán vốn nhiều hơn để DN có yếu tố mới trong bộ máy quản trị; giải quyết các vướng mắc còn lại sớm thành lập quỹ hưu trí tự nguyện và mở đường cho loại hình tổ chức khác tham gia thị trường, đồng thời đa dạng sản phẩm đầu tư. 

Theo Thời báo Ngân hàng

Thông tin kinh tế Quốc tế tuần từ 18-23/2/2019

KINH TẾ – TÀI CHÍNH THẾ GIỚI Nội dung
Tăng trưởng – Lạm phát Tăng trưởng

– Mexico: Ngân hàng Trung ương Mexico (Banxico) cho biết, kinh tế nước này trong năm 2018 chỉ tăng trưởng 2,2% và lạm phát vẫn ở mức cao 4,6%, đồng thời dự báo GDP tăng 2,1% trong năm 2019 với lạm phát giảm xuống còn 3,9%. Trong năm 2018, Banxico đã liên tục tăng lãi suất cơ bản để kiềm chế lạm phát nhưng không đạt được mục tiêu đề ra là 3% +/- 1 điểm phần trăm. Hiện lãi suất cơ bản của Mexico đang ở mức cao kỷ lục 8,25%. (Theo TTXVN ngày 16/02)

– Đức: Kinh tế Đức đã tránh được một cuộc suy thoái kỹ thuật trong nửa cuối của năm 2018 khi GDP ghi nhận mức tăng trưởng 0% trong quý IV/2018. Tăng trưởng kinh tế của Đức trong năm 2018 chỉ đạt 1,4%, thấp hơn 0,1% so với dự tính được đưa ra vào tháng 01/2019 và kém xa mức tăng 2,2% của năm 2017 (quý I, II, III và IV tăng trưởng lần lượt 0,4%; 0,5%; 0,2% và 0%).

Đây cũng là mức tăng trưởng yếu nhất của nền kinh tế Đức trong 5 năm qua. Nguyên nhân là do doanh số bán ô tô giảm từ tháng 9/2018, hoạt động vận tải nội địa cũng bị chậm lại; xung đột thương mại kéo dài giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và lo ngại về một Brexit không thỏa thuận. Kinh tế Đức được dự báo tăng trưởng 1% trong năm 2019 và nước này đang phải đối diện với nguy cơ thiếu hụt ngân sách khoảng 25 tỷ EUR vào năm 2023. (Theo Cơ quan Thống kê Liên bang Đức – Destatis ngày 15/02)

– Hoa Kỳ: Trong bối cảnh các nguy cơ mang tính toàn cầu gia tăng, đặc biệt các mối quan hệ thương mại quốc tế căng thẳng, nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn duy trì sự ổn định; tuy nhiên, GDP trong năm 2019 sẽ sụt giảm phần nào so với mức tăng trưởng rõ rệt trong năm 2018 và Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) chưa thể chắc chắn về các bước đi tiếp theo trong bối cảnh rủi ro thương mại toàn cầu đang gia tăng. (Theo FED ngày 20/02)

 Lạm phát

– Anh: Chỉ số CPI 12 tháng tính đến tháng 01/2019 chỉ đạt 1,8%, giảm so với mức 2,1% tại thời điểm tháng 12/2018, ghi dấu lần đầu tiên giảm xuống dưới mức mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) kể từ tháng 01/2017, làm cho mục tiêu lạm phát 2% mà BoE đặt ra càng khó đạt được trong bối cảnh giá năng lượng đang giảm. (Theo Cơ quan Thống kê quốc gia Anh – ONS ngày 13/02)

Chứng khoán – Chứng khoán Hoa Kỳ: Trong tuần từ ngày 18 – 23/02/2019, chỉ số Dow Jones; S&P 500  và Nasdaq Composite tăng lần lượt 0,57%; 0,62% và 0,74% so với chốt phiên giao dịch cuối tuần trước (15/02/2019). Đây là tuần tăng thứ 9 liên tiếp của chỉ số Dow Jones và Nasdaq. Trong ngày giao dịch 22/02/2019:

+ Dow Jones tăng 181,18 điểm (+0,70%) lên 26.031,81 điểm.

+ S&P 500 S&P 500 tăng 17,79 điểm (+0,64%) lên 2.792,67 điểm.

+ Nasdaq Composite tăng 67,84 điểm (+0,91%) lên 7.527,54 điểm.

– Chứng khoán châu Á: Tính chung cả tuần, MSCI châu Á – Thái Bình Dương tăng 2,53 điểm (1,55%). Trong ngày giao dịch cuối tuần (22/02/2018) so với phiên giao dịch hôm trước, các chỉ số:

– Nikkei 225 (Nhật Bản) giảm 38,72 điểm (-0,18%) xuống 21.425,51 điểm.

– Shanghai Composite (Thượng Hải) tăng 52,43 điểm (+1,91%) lên 2.804,23 điểm.

– Hang Seng (Hồng Kông) tăng 186,38 điểm (+0,65%) lên 28.816,30 điểm.

Dầu mỏ Tuần từ ngày 18 – 23/02/2019, giá dầu WTI và Brent tăng lần lượt là 3% và 1,31%. Chốt phiên giao dịch cuối tuần (22/02/2019), giá dầu thô kỳ hạn:

– Dầu WTI của Hoa Kỳ tăng 0,30 USD (+0,52%) lên 57,26 USD/thùng.

– Dầu Brent tăng 0,05 USD (+0,07%) lên 67,12 USD/thùng.

Châu Âu – Châu Âu:

Châu Âu cần bổ sung hơn 100 tỷ USD cho chi tiêu quốc phòng để đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ tài chính đóng góp cho Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Hiện 27 nước châu Âu là thành viên của NATO không hoàn thành nghĩa vụ tài chính năm 2018 đối với NATO (tức dành 2% GDP cho ngân sách quốc phòng), do đó còn thiếu khoảng 102 tỷ USD. Các nước này “buộc phải tăng chi tiêu quốc phòng thêm 38%” mới có thể hoàn thành mục tiêu nói trên. Tổng chi tiêu quốc phòng của 27 nước châu Âu trong năm 2018 là 250 tỷ USD. (Theo Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế – IISS ngày 15/02)

Nhà sản xuất xe lớn nhất châu Âu Volkswagen cho biết, doanh số bán xe trong tháng 01/2019 đã giảm khoảng 1,8% so với cùng kỳ năm 2018 xuống 882.200 chiếc. Tại Trung Quốc, thị trường lớn nhất của Volkswagen đã giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2018; tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương giảm khoảng 3,1%; tại thị trường Bắc Mỹ và Nam Mỹ cũng giảm lần lượt 5,2% và 4,9%. Tuy nhiên, tại thị trường châu Âu tăng 0,5% và tại thị trường Đức cũng tăng 0,7%. (Theo TTXVN ngày 17/02)

– Nga: Tính đến cuối năm 2018 đã có 62 quốc gia trên thế giới áp đặt các biện pháp hạn chế đối với hàng hóa của Nga. Đứng đầu danh sách những nước có số lượng các biện pháp hạn chế đối với sản phẩm có xuất xứ từ Nga là Liên minh châu Âu (25), Ukraine (22), Ấn Độ (16), Belarus (13), Thổ Nhĩ Kỳ (12), Hoa Kỳ (9) và Australia.

Tổng thiệt hại Nga phải chịu khoảng 6,3 tỷ USD, trong đó các biện pháp trừng phạt của Liên minh châu Âu (EU) đã gây thiệt hại lớn nhất đối với hàng hóa xuất khẩu của Nga (hơn 2,4 tỷ USD), tiếp đến là Hoa Kỳ (hơn 1,1 tỷ USD), Ukraine (775 triệu USD), Thổ Nhĩ Kỳ (715 triệu USD)… Công nghiệp luyện kim là ngành chịu thiệt hại nặng nề nhất (khoảng 4 tỷ USD) do các biện pháp trừng phạt kinh tế của phương Tây. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thiệt hại ước tính khoảng 1,1 tỷ USD, hóa chất là 641 triệu USD, ngành công nghiệp ô tô là 306 triệu USD.

Trong năm 2018, Bộ Phát triển kinh tế Nga đã loại bỏ và tự do hóa 32 hạn chế thương mại (bao gồm cả đe dọa áp đặt trừng phạt), tác động tiêu cực đến việc tiếp cận hàng hóa của Nga vào thị trường nước ngoài, mà theo ước tính của giới chuyên gia, thiệt hại vượt quá 330 triệu USD. (Theo Bộ Phát triển kinh tế Nga ngày 18/02)

– Đức: Năm 2018, Đức ghi nhận mức thặng dư tài khoản vãng lai lớn nhất thế giới với 294 tỷ USD nhờ xuất khẩu tăng mạnh; tiếp đến là Nhật Bản với 173 tỷ USD; trong khi Nga xếp ở vị trí thứ ba với 116 tỷ USD.

Tuy nhiên, so với quy mô kinh tế, thặng dư tài khoản vãng lai của Đức trong năm 2018 đã giảm năm thứ ba liên tiếp xuống 7,4% GDP so với mức 7,9% GDP của năm 2017. Kể từ năm 2011, cán cân tài khoản vãng lai của Đức liên tục vượt ngưỡng khuyến nghị 6% GDP của Ủy ban châu Âu (EC) và thặng dư tài khoản vãng lai của nước này từng ghi nhận mức kỷ lục 8,9% GDP trong năm 2015. (Theo Viện Ifo ngày 19/02)

– Anh: Fitch cảnh báo có thể hạ mức đánh giá nợ AA của Vương quốc Anh hiện nay, nếu kinh tế nước này bị tác động mạnh bởi tiến trình đàm phán Anh rời EU vẫn không đạt được thỏa thuận. Kịch bản Brexit không thỏa thuận sẽ dẫn tới sự đổ vỡ đối với triển vọng kinh tế, thương mại của Anh trong ngắn hạn.

Nếu Anh rời EU mà không đạt được thỏa thuận về thương mại, biên giới và các vấn đề khác, nước này sẽ đối mặt với nguy cơ suy thoái. Tuy nhiên, nếu tránh được kịch bản Brexit không thỏa thuận, dự báo đà tăng trưởng của kinh tế Anh sẽ phục hồi lên 1,6% trong năm 2019 và 1,8% vào năm 2020. (Theo TTXVN ngày 21/02)

Châu Á – Hàn Quốc:

+ Hàn Quốc đặt mục tiêu xuất khẩu các “thành phố thông minh” sau khi hoàn thành xây dựng hai thành phố thử nghiệm. Theo kế hoạch, Chính phủ Hàn Quốc sẽ chi 3.700 tỷ KRW (khoảng 3,3 tỷ USD) để hoàn thành xây dựng thành phố thông minh đầu tiên trước cuối năm 2021.

Các công nghệ mới nhất và tiên tiến nhất sẽ được sử dụng để thu thập dữ liệu và cung cấp thông tin giúp điều hành thành phố tốt hơn và cho phép giới chức cũng như cư dân sử dụng thời gian và các nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Những người sống ở các thành phố thông minh sẽ tiết kiệm 124 giờ/năm trong việc đi lại, đợi làm các thủ tục hành chính hay chờ xếp hàng tại bệnh viện. (Theo Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in ngày 13/02)

Quy mô thương mại giữa Hàn Quốc và EU trong năm 2018 vượt ngưỡng 100 tỷ EUR. Đây là năm thứ hai liên tiếp vượt ngưỡng 100 tỷ EUR, sau khi đạt 101,8 tỷ EUR vào năm 2017. Trong năm 2018, Hàn Quốc xuất khẩu sang EU số hàng hóa trị giá 51 tỷ EUR, nhập khẩu 49,2 tỷ EUR, tổng quy mô thương mại đạt 100,2 tỷ EUR (Theo Cơ quan Thống kê châu Âu – Eurostat).

Quy mô thương mại năm 2018 giảm 1,6% so với năm 2017, trong đó xuất khẩu giảm 1,4% và nhập khẩu giảm 1,8%. Song thặng dư cán cân thương mại đã tăng từ 1,6 tỷ EUR năm 2017 lên 1,9 tỷ EUR do nhập khẩu giảm nhiều hơn xuất khẩu. Hàn Quốc tiếp tục duy trì vị trí đối tác thương mại lớn thứ 8 của EU, sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Thụy Sĩ, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản và Na Uy. (Theo Đài phát thanh và truyền hình Hàn Quốc ngày 19/02)

Hàn Quốc xếp ở vị trí thứ 5 trong 6 nước đi đầu về công nghệ thông minh trên thế giới. Nếu lấy Hoa Kỳ là nước đi đầu về công nghệ làm tiêu chuẩn với 100%, trình độ công nghệ của Đức đạt 93,4% (kém 0,4 năm), Nhật Bản là 79,9% (kém 1,5 năm), EU 79,6% (1,5 năm), Hàn Quốc 72,3% (kém 2,5 năm), Trung Quốc là 66% (kém 3,1 năm).

Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc (MOTIE) đã tiến hành đánh giá trình độ công nghệ của sáu nước lớn ở bảy lĩnh vực với 25 công nghệ cụ thể, thông qua kết quả điều tra của các chuyên gia và phân tích về bản quyền luận văn nghiên cứu.

Hàn Quốc thuộc nhóm đi đầu công nghệ (đạt trên 80% so với tiêu chuẩn tối đa) ở hai lĩnh vực là hệ thống viễn thông và hệ thống vận hành nhà máy. Trong số 25 hạng mục cụ thể, Hàn Quốc sở hữu công nghệ cao nhất ở hạng mục viễn thông Internet. Hoa Kỳ sở hữu công nghệ cao nhất ở sáu lĩnh vực, Đức đứng đầu ở lĩnh vực hệ thống điều khiển. (Theo MOTIEngày 20/02)

– Triều Tiên: Trong tháng 12/2018, Nga xuất khẩu gần 6.983 tấn dầu tinh luyện sang Triều Tiên. Đây là lượng dầu tinh luyện xuất khẩu sang Triều Tiên hằng tháng lớn nhất kể từ năm 2017. Trung Quốc cũng đã vận chuyển 1.511 tấn dầu tinh luyện sang Triều Tiên.

Như vậy, Nga và Trung Quốc đã vận chuyển tổng cộng 48.441 tấn dầu tinh luyện sang Triều Tiên trong năm 2018. Sau khi Triều Tiên tiến hành một vụ phóng tên lửa tầm xa năm 2017, Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 2397, theo đó đặt mức trần đối với dầu tinh chế được phép xuất khẩu sang Triều Tiên là 500.000 thùng/năm, tương đương khoảng 60.000 – 65.000 tấn. (Theo Liên Hợp quốc ngày 15/02)

– Ấn Độ: Một ngày sau khi hủy bỏ quy chế Tối huệ quốc dành cho Pakistan, ngày 16/02, Ấn Độ đã áp thuế nhập khẩu 200% đối với tất cả các hàng hóa bắt nguồn hoặc nhập khẩu từ Pakistan. Quyết định trên của Chính phủ Ấn Độ là một phần của gói biện pháp trả đũa nhằm vào nước láng giềng, sau vụ 49 thành viên Lực lượng cảnh sát dự bị Trung ương Ấn Độ (CRPF) bị thiệt mạng trong vụ tấn công khủng bố ở bang Jammu và Kashmir.

Trước đó ngày 15/02, Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ Arun Jaitley tuyên bố nước này sẽ rút quy chế Tối huệ quốc dành cho Pakistan với hiệu lực tức thì sau vụ tấn công khủng bố trên. Ấn Độ áp dụng quy chế Tối huệ quốc với tất cả các thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) theo Điều 1 của Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại (GATT) năm 1994.

(Theo Hãng tin IANS 17/01)

– Thái Lan: Tính đến thời điểm nửa cuối tháng 02/2019, đồng THB của Thái Lan đã tăng giá 4% so với đồng USD và sẽ lấy lại vị trí của một trong những đồng tiền tăng giá nhanh nhất châu Á. Nguyên nhân được cho là do những thông tin về tình hình kinh tế khả quan của Thái Lan được công bố ngày 18/02. (Theo TTXVN ngày 20/02)

Hoa Kỳ Ngành chế tạo Hoa Kỳ trong tháng 01/2019 đã giảm 0,9% so với tháng 12/2018, phần lớn do sự sụt giảm trong hoạt động lắp ráp ô tô. Số liệu trên đã kéo sản lượng công nghiệp của Hoa Kỳ giảm 0,6% trong tháng 01/2019, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 5/2018. (Theo Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ – FED ngày 15/02)

Theo nhà phân tích Ian Shepherdson của Pantheon Macroeconomics, ngành chế tạo Hoa Kỳ đang đứng trước sức ép thực sự đến từ sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc và căng thẳng thương mại. Dự kiến sản lượng chế tạo của Hoa Kỳ sẽ suy giảm trong nửa đầu năm 2019, đẩy lĩnh vực này rơi vào tình trạng “suy thoái nhẹ”.

Thâm hụt ngân sách nước này trong tháng 12/2018 giảm 40% so với cùng kỳ năm 2017 xuống 13,5 tỷ USD, nhưng thâm hụt trong quý IV/2018 đã tăng 41,8% so với cùng kỳ năm 2017 lên 318,9 tỷ USD. Tổng chi ngân sách trong tháng 12/2018 giảm 4% với cùng kỳ năm 2017, trong khi thu ngân sách giảm 6,6%. Giới phân tích cho rằng chương trình cắt giảm thuế trị giá 1.500 tỷ USD cũng như chi tiêu chính phủ ngày một tăng làm cho thâm hụt ngân sách và nợ công của Hoa Kỳ tăng mạnh. (Theo Bộ Tài chính Hoa Kỳ ngày 13/02)
Nợ công của Hoa Kỳ lần đầu tiên trong lịch sử vượt ngưỡng 22.000 tỷ USD, đạt 22.010 tỷ USD, tương đương GDP của ba nền kinh tế lớn là Trung Quốc, Nhật Bản và Đức cộng lại. Con số này tăng đáng kể so với mức 19.950 tỷ USD vào thời điểm Tổng thống Donald Trump nhậm chức ngày 20/01/2017.

Văn phòng Ngân sách Quốc hội Hoa Kỳ (CBO) cũng cảnh báo quy mô nợ công của Hoa Kỳ có thể chạm mức 100% GDP vào cuối thập kỷ tới và tăng lên 152% GDP vào năm 2048, mức cao nhất trong lịch sử nước này. (Theo Bộ Tài chính Hoa Kỳ ngày 12/02)

Trung Quốc Trung Quốc sẽ thu hút lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2019, trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục mở rộng tiếp cận cho doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường vốn của nước này. Trong năm 2018, thị trường vốn của Trung Quốc đã tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài cao kỷ lục 120 tỷ USD.

Dự báo nguồn vốn nước ngoài trị giá 200 tỷ USD sẽ chảy vào thị trường vốn Trung Quốc trong năm 2019. Bên cạnh đó, Báo cáo của Morgan Stanley cho biết, thị trường cổ phiếu loại A của Trung Quốc sẽ thu hút khoảng 70 – 125 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2019, trong khi trái phiếu doanh nghiệp sẽ chứng kiến dòng vốn đổ vào khoảng 300 – 400 tỷ USD trong năm 2030. (Theo Tờ China Securities News ngày 18/02)

Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng 15,2 tỷ USD trong tháng 01/2019 lên 3.088 tỷ USD, cao hơn so với mức tăng 11 tỷ USD hồi tháng 12/2018, cũng như vượt mức dự báo 9,3 tỷ USD của giới chuyên gia.

Nguyên nhân là do đồng CNY tăng giá trước những kỳ vọng về tiến triển trong các cuộc đàm phán thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, với mức tăng 2,6% so với đồng USD trong tháng 01/2019. Bên cạnh đó, giá trị dự trữ vàng của Trung Quốc đã tăng từ 76,331 tỷ USD vào cuối tháng 12/2018 lên 79,319 tỷ USD trong tháng 01/2019. (Theo Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc – PboC ngày 12/02)

Trung Quốc hiện vẫn là nước nắm giữ trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ lớn nhất. Tính đến tháng 12/2018, số lượng trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà Trung Quốc nắm giữ là 1,123 nghìn tỷ USD.

Trong tháng trước đó, Trung Quốc sở hữu số lượng trái phiếu trị giá 1,121 nghìn tỷ USD, giảm 17,5 tỷ USD so với tháng 10/2018. Trong khi đó, số lượng trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà Nhật Bản nắm giữ đã trị giá 1,042 nghìn tỷ USD trong tháng 12/2018, tăng so với mức 1,036 nghìn tỷ USD hồi tháng 11/2018. Như vậy, tổng cộng cả Nhật Bản và Trung Quốc đang nắm giữ hơn 1/3 tổng số lượng trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ do nước ngoài sở hữu. (Theo Bộ Tài chính Hoa Kỳ 15/02)

Thị trường ô tô của nước này vẫn ảm đạm trong tháng 01/2019, với doanh số bán giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2018. Doanh số bán ô tô tại thị trường Trung Quốc trong tháng 01/2019 chỉ đạt 2,367 triệu chiếc, giảm 15,8% so với cùng kỳ năm 2018, trong khi sản lượng ô tô đạt 2,365 triệu chiếc, giảm 12,1%.

Doanh số bán xe hơi sẽ tiếp tục xu hướng đi xuống trong tháng 2, chủ yếu do kinh tế chậm lại và nhu cầu suy giảm tại các thành phố nhỏ. Trước đó, Hiệp hội các nhà chế tạo ô tô Trung Quốc (CAAM) dự báo doanh số bán xe tại Trung Quốc sẽ đạt 28 triệu chiếc trong năm 2019, tương đương với con số của năm 2018, trong khi các cơ quan khác và Chính phủ Trung Quốc dự báo doanh số tăng từ 0 – 2%. (Theo CAAM ngày 18/02)

Venezuela Venezuela đã thiệt hại trực tiếp khoảng 38 tỷ USD trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa, dịch vụ và khai thác dầu mỏ trong 3 năm qua, do ảnh hưởng từ các biện pháp trừng phạt kinh tế, tài chính của Hoa Kỳ.

Trong đó, Venezuela đã tổn thất 23 tỷ USD GDP và 15 tỷ USD liên quan tới hoạt động của chi nhánh Tập đoàn Dầu khí quốc gia (PDVSA) tại Hoa Kỳ, Citgo. Nếu cộng thêm cả 20 tỷ USD thiệt hại trong vụ phá hoại ngành dầu khí xảy ra năm 2002, Venezuela đã mất gần 60 tỷ USD trong những năm qua. (Theo Phó Tổng thống Venezuela Ricardo Menendez ngày 18/02)

Đàm phán – Ký kết Ấn Độ và Hoa Kỳ

Tập đoàn dầu khí Ấn Độ (IOC) đã ký một thỏa thuận mua 3 triệu tấn dầu thô mỗi năm từ Hoa Kỳ trị giá 1,5 tỷ USD. Đây là lần đầu tiên một công ty dầu khí Ấn Độ nhập dầu thô từ Hoa Kỳ và thỏa thuận sẽ được thực hiện từ đầu năm tài khóa 2019 – 2020 (bắt đầu vào ngày 01/4/2019).

Việc Ấn Độ tăng cường mua dầu từ các công ty dầu mỏ Hoa Kỳ diễn ra trong bối cảnh Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Iran. Quyết định của Hoa Kỳ làm cho Ấn Độ phải cắt giảm mua dầu từ Iran, đẩy Iran từ vị trí nhà cung cấp dầu lớn thứ ba của Ấn Độ tại thời điểm Hoa Kỳ đưa ra lệnh trừng phạt xuống vị trí thứ 7 tại thời điểm tháng 01/2019. (Theo Hãng thông tấn PTI ngày 18/02)

Thông tin Kinh tế trong nước tuần từ 18 – 23/2/2019

KINH TẾ – TÀI CHÍNH VIỆT NAM Nội dung
Tổng cung  
Tăng trưởng Quỹ Di sản – Heritage – vừa công bố báo cáo Chỉ số tự do kinh tế năm 2019, trong đó Việt Nam được tăng 2 điểm so với năm ngoái, đạt 55,3 điểm, xếp hạng thứ 128 trên thế giới. Nguyên nhân của sự gia tăng này là nhờ sức khỏe tài khóa, tự do đầu tư và môi trường pháp lý. Một số chỉ số thành phần được cải thiện như chỉ số tự do kinh doanh tăng 0,3 điểm; chỉ số tự do lao động tăng 2,4 điểm; tuy nhiên chỉ số tự do tiền tệ lại giảm 6,5 điểm.(Theo enternews.vn ngày 21/02)
Sản xuất công nghiệp Tính đến 15 giờ ngày 15/02/2019, Quỹ bình ổn giá xăng dầu của Petrolimex còn 1.720 tỷ đồng, giảm 220 tỷ đồng so với thời điểm điều chỉnh giá xăng dầu trước đó vào ngày 31/01/2019. Sau khi trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, giá xăng dầu các loại vẫn được giữ nguyên như thời điểm điều chỉnh vào ngày 31/01/2019. Cụ thể: Xăng RON 95-IV là 17.750 đồng/lít; xăng RON 95-III là 17.600 đồng/lít; xăng E5 RON 92 là 16.270 đồng/lít. Dầu diesel tiêu chuẩn euro 5 là 15.100 đồng/lít. Dầu hỏa là 14.180 đồng/lít.
Ngày 19/02, làm việc với một số bộ, ngành về tình hình giá gạo giảm so với cùng kỳ năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhất trí với kiến nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, Bộ Tài chính tập trung triển khai mua dự trữ quốc gia năm 2019 với số lượng 80.000 tấn thóc và 200.000 tấn gạo, sẵn sàng mua 100.000 tấn tiếp theo để thực hiện Nghị định số 75/2015/NĐ-CP về cơ chế chính sách bảo vệ và phát triển rừng gắn với chính sách giảm nghèo nhanh bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 – 2020 và các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. (Theo sggp.org.vn ngày 19/02)
Doanh nghiệp Giá trị thương hiệu của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) đã tăng 64%, từ 381 triệu USD (năm 2018) lên trên 625 triệu USD năm 2019, tăng 68 bậc, lên hạng 242 – thứ hạng cao nhất trong các ngân hàng Việt Nam và đưa VietinBank trở thành ngân hàng Việt Nam đầu tiên, duy nhất lọt vào Top 300 thương hiệu ngân hàng giá trị nhất thế giới theo báo cáo xếp hạng năm 2019 của Brand Finance. VietinBank cũng giữ vững vị trí trong Top 20 ngân hàng thế giới thăng hạng mạnh nhất (xếp thứ 8). Chỉ số sức mạnh thương hiệu của VietinBank được Brand Finance đánh giá tăng từ 67 lên 77,33 trong thang điểm 100, xếp hạng thương hiệu tăng từ AA- (năm 2018) lên AA+. (Theo bnews.vn ngày 18/02)
Trong tháng 01/2019, doanh số bán xe ô tô toàn thị trường đạt 33.484 xe, giảm 2% so với tháng 12/2018 và tăng 27% so với tháng 1/2018. Trong đó, doanh số bán xe du lịch đạt 27.396 xe, tăng 14%; xe thương mại đạt 5.755 xe, giảm 41%; xe chuyên dụng đạt 333 xe, giảm 34% so với tháng trước. Theo xuất xứ, doanh số bán xe sản xuất lắp ráp trong nước đạt 18.799 xe, giảm 12%; xe nhập khẩu nguyên chiếc đạt 14.685 xe, tăng 14% so với tháng trước. (Theo Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam – VAMA ngày 20/02)
Bộ Công Thương vừa ban hành khung giá phát điện năm 2019 áp dụng cho đàm phán giá hợp đồng mua bán điện của các nhà máy điện. Cụ thể, đối với nhà máy nhiệt điện than, mức trần của khung giá phát điện (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, chi phí cảng biển và cơ sở hạ tầng dùng chung) áp dụng cho than nhập khẩu công suất tinh 1×600 MW là 1.896,05 đồng/kWh.

Mức trần của nhà máy điện chuẩn có công suất tinh 2x600MW là 1.677,02 đồng/kWh. Đối với nhà máy thủy điện, mức trần của khung giá điện (chưa bao gồm thuế tài nguyên nước, tiền phí dịch vụ môi trường rừng, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước và thuế giá trị gia tăng) là 1.110 đồng/kWh. (Theo Thoibaotaichinh.vn ngày 20/02)

Năm 2019, Tổng cục Thuế sẽ tiến hành thanh tra thuế 7.157 doanh nghiệp, giảm 70 doanh nghiệp so với chỉ tiêu giao năm 2018 (7.227 doanh nghiệp) và kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế 79.941 cuộc, giảm 1.973 cuộc (81.914 cuộc). Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là có số lượng doanh nghiệp thanh kiểm tra thuế lớn nhất.

Riêng Cục Thuế Hà Nội được giao kế hoạch thanh tra 1.331 doanh nghiệp và 15.303 cuộc kiểm tra. Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thanh tra 1.246 doanh nghiệp và có nhiệm vụ kiểm tra 22.422 cuộc. Một số tỉnh có điều tiết về ngân sách trung ương được giao nhiệm vụ kiểm tra trung bình từ trên 1.000 cuộc đến trên 2.800 cuộc. (Tổng cục Thuế ngày 19/02)

Cả nước có hơn 9.600 doanh nghiệp hoạt động gia công, nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Mặc dù về số lượng, các doanh nghiệp này chỉ chiếm tỷ trọng 11,2% (trên tổng số hơn 85.600 doanh nghiệp xuất – nhập khẩu) nhưng về kim ngạch lại chiếm trên 55,28% kim ngạch nhập khẩu và 64,87% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2018, xuất siêu của Việt Nam đạt 7,2 tỷ USD, tuy nhiên lĩnh vực gia công, sản xuất hàng xuất khẩu xuất siêu 65,35 tỷ USD (xuất 222,24 tỷ USD, nhập khẩu 156,89 tỷ USD). (Báo haiquan.vn ngày 20/02 dẫn thông tin từ Tổng cục Hải quan)
Tổng cầu
Đầu tư Trong nỗ lực triển khai Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020, trước mắt, Chính phủ sẽ triển khai đầu tư 11 dự án với tổng chiều dài 654 km, đi qua địa phận 13 tỉnh. Tổng mức đầu tư khoảng 118.716 tỷ đồng, trong đó có 3 dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, 8 dự án đầu tư theo hình thức PPP. Giai đoạn này sẽ có gần 5.000 héc-ta đất bị thu hồi, khoảng 3.700 hộ dân phải tái định cư. (Theo saigondautu.com.vn ngày 22/02)
Xuất nhập khẩu Xuất khẩu gạo đầu năm 2019 đã lao dốc mạnh, làm cho giá lúa, gạo ở thị trường nội địa cũng sụt giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện giá lúa thường chỉ còn 4.300 đồng/kg, giảm khoảng 300 đồng/kg so với trước Tết. Dù bị thương lái ép giá nhưng nông dân bắt buộc bán lúa vì không có nơi cất trữ. Kết thúc năm 2018, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt gần 7 triệu tấn, cao nhất kể từ năm 2016 và tăng gần 400.000 tấn so với năm 2017, tuy nhiên, bước sang năm 2019, xuất khẩu gạo đã quay đầu sụt giảm mạnh. (Báo congthuong.vn ngày 18/02 dẫn thông tin từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam – VFA)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự báo nhu cầu nhập khẩu gạo của Việt Nam tại các thị trường truyền thống sẽ tăng nhẹ trong quý I/2019. Philippines có nhu cầu nhập khẩu 1 triệu tấn gạo, trong đó có nhiều đơn hàng gạo Việt Nam. Thuế nhập khẩu gạo ở mức 35% nếu có nguồn gốc từ khu vực ASEAN và 50% với các nước ngoài ASEAN. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc sẽ gặp nhiều thách thức do các chính sách tăng thuế đối với mặt hàng gạo, thắt chặt nhập khẩu tiểu ngạch, yêu cầu mới về truy xuất nguồn gốc xuất xứ sản phẩm. (Theo Vov.vn ngày 17/02)
Năm 2019, ngành sản xuất, chế biến tôm đặt mục tiêu giá trị xuất khẩu đạt 4,2 tỷ USD, góp phần giúp kim ngạch xuất khẩu toàn ngành thủy sản đạt mục tiêu 10 tỷ USD và hướng tới mục tiêu đạt 4,5 tỷ USD từ xuất khẩu tôm vào năm 2020. Để đảm bảo mục tiêu này, diện tích nuôi tôm sú được duy trì khoảng 620.000ha, với sản lượng khoảng 330.000 tấn. Sản lượng và giá trị xuất khẩu tôm thẻ chân trắng dự kiến đạt khoảng 530.000 tấn. Năm 2018, xuất khẩu tôm giảm gần 8%, chỉ đạt 3,55 tỷ USD.
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tháng 01/2019 khởi sắc với kim ngạch đạt hơn 5,151 tỷ USD, tăng 42,1% so với cùng kỳ 2018. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ gấp 4,7 lần tốc độ bình quân chung cả nước. Trong tháng 1, Việt Nam nhập khẩu 1,076 tỷ USD từ thị trường Hoa Kỳ. Như vậy, tháng 1 Việt Nam xuất siêu hơn 4 tỷ USD sang Hoa Kỳ. (Theo Tổng cục Hải quan ngày 19/02)
Tháng 01/2019, tổng trị giá xuất – nhập khẩu cả nước đạt hơn 43 tỷ USD. Trong đó, trị giá kim ngạch xuất khẩu đạt 22,076 tỷ USD và nhập khẩu đạt 21,26 tỷ USD. Như vậy, cán cân thương mại của cả nước thặng dư 816 triệu USD (trước đó Tổng cục Thống kê ước tính cán cân thương mại tháng 1 thâm hụt khoảng 800 triệu USD). Ước tính, nếu tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu của cả nước tăng bình quân 5% trong năm 2019, đến đầu tháng 12/2019, kim ngạch xuất – nhập khẩu của Việt Nam sẽ đạt kỷ lục mới 500 tỷ USD. (Tổng cục Hải quan ngày 18/02)
Năm 2019, tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm gỗ vẫn tiếp tục được duy trì ở mức hai con số và có thể đạt mục tiêu đề ra là 10,5 tỷ USD. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ đạt hơn 8,9 tỷ USD (không tính các mặt hàng lâm sản ngoài gỗ), tăng 14,5% so với năm 2017. Nguyên liệu cho chế biến gỗ trong nước đã chiếm 75%. Các doanh nghiệp trong nước chiếm 53% tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ. (Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam ngày 21/02)
Trong nửa đầu tháng 2, tổng trị giá xuất khẩu cả nước đạt 4,246 tỷ USD, trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 6,332 tỷ USD, đưa giá trị nhập siêu tăng lên mức 2,086 tỷ USD. Lũy kế đến ngày 15/02, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 26,319 tỷ USD, nhập khẩu đạt 27,596 tỷ USD tỷ USD, giá trị nhập siêu gần 1,3 tỷ USD. (Theo Tổng cục Hải quan ngày 21/02)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa công bố số liệu mới nhất cho biết, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 01/2019 ước đạt 644 triệu USD, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, xuất khẩu cá tra ước đạt 165 triệu USD, giảm 4,4%; tôm các loại ước đạt 260 triệu USD, giảm 2,2%. Đáng chú ý, tại đồng bằng sông Cửu Lon, giá cá tra loại I chững lại ở mức 29.000 – 29.500 đồng/kg. (Theo baohaiquan.vn ngày 21/02)
Cân đối vĩ mô
Giá vàng Trong tuần qua, giá vàng có 3 ngày tăng giá, 3 ngày giảm giá. Trong phiên giao dịch ngày 23/02 so với ngày 22/02, giá vàng miếng SJC được niêm yết tại một số doanh nghiệp kinh doanh vàng:

– Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn: 36,90 – 37,1 triệu đồng/lượng, tăng 80 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua vào và bán ra.

– Công ty Doji: 36,97 – 37,09 triệu đồng/lượng, tăng 110 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều.

Tỷ giá Tính chung tuần qua, tỷ giá trung tâm giảm 9 đồng so với tuần trước với 2 ngày tăng giá, 3 ngày giảm giá và 1 ngày không thay đổi. Trong phiên giao dịch ngày 23/02, tỷ giá trung tâm là 22.906 VND/USD, không thay đổi so với tỷ giá ngày 22/02; tỷ giá USD tại một số ngân hàng thương mại tăng nhẹ so với ngày 22/02 như sau:

– Vietcombank và Techcombank: 23.165-23.265 VND/USD, tăng 5 đồng ở cả hai chiều mua và bán.

– BIDV: 23.160-23.260 VND/USD, tăng 5 đồng ở mỗi chiều.

Tín dụng Trong tuần 11 – 15/02, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hút ròng 51.558 tỷ đồng khi có tới 65.354 tỷ đồng OMO đến hạn. Khối lượng OMO lưu hành giảm liên tục từ mức hơn 150 nghìn tỷ đồng về 101 nghìn tỷ đồng. Kênh tín phiếu vẫn không phát sinh giao dịch và duy trì số dư bằng 0. Lãi suất liên ngân hàng giảm ở tất cả các kỳ hạn, lãi suất qua đêm là 4,52%/năm, lãi suất 1 tuần 4,64%. Chênh lệch lãi suất VND -USD có xu hướng thu hẹp nhưng vẫn duy trì ở mức 1,8 – 2%. (Theo Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn ngày 18/02)
Thị trường tài sản
Cổ phiếu Trong tuần từ ngày 18/02 – 22/02/2019:

– VN-Index có 5 ngày tăng điểm. Chốt tuần, VN-Index tăng 1,34 điểm (+0,14%) lên 988,91 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 198,34 triệu đơn vị/ngày, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 4.589,76 triệu đơn vị/ngày.

– HNX-Index có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, HNX-Index tăng 0,7 điểm (+0,66%) lên 106,82 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 35,39 triệu đơn vị/phiên, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 491,22 triệu đơn vị/ngày.

– Upcom-Index có 4 ngày tăng điểm và 1 ngày giảm điểm. Chốt tuần, Upcom-Index tăng nhẹ 0,02 điểm (+0,03%) lên 55,55 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 12,462 triệu đơn vị/ngày, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 258,178 tỷ đồng/ngày.

Trong tuần qua, khối ngoại đã bán ròng 17,76 triệu đơn vị (tuần trước mua ròng 37,63 triệu đơn vị). Tuy nhiên, xét về giá trị, họ vẫn mua ròng 45,24 tỷ đồng, giảm mạnh so với giá trị mua ròng của tuần trước (1.875,89 tỷ đồng).

– HOSE: Khối ngoại thực hiện 4 phiên mua ròng và bán ròng duy nhất 1 phiên ngày đầu tuần 18/2. Tổng cộng, khối ngoại đã mua ròng 8,26 triệu đơn vị, giảm 78,54% so với tuần trước. Tổng giá trị mua ròng tương ứng 540,47 tỷ đồng, giảm mạnh hơn 71% so với tuần trước đó (mua ròng 1.867,58 tỷ đồng).

– HNX: Khối ngoại thực hiện 5 phiên mua ròng liên tiếp với tổng khối lượng 1,98 triệu đơn vị,  tổng giá trị 55,41 tỷ đồng (tuần trước đó đã bán ròng 1,92 triệu đơn vị, tổng giá trị mua ròng 0,36 tỷ đồng).

– UPCoM: Khối ngoại mua ròng 3 phiên và bán ròng 2 phiên. Tổng cộng, khối ngoại đã bán ròng gần 28 triệu đơn vị với tổng giá trị tương ứng 550,64 tỷ đồng (tuần trước đó mua ròng 1,09 triệu đơn vị, tổng giá trị mua ròng 7,95 tỷ đồng).

Bất động sản Trong năm 2019, Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu phát triển thêm 8 triệu m2 sàn xây dựng nhà ở, nâng tổng diện tích sàn nhà ở trên địa bàn lên 178,25 triệu m2 và diện tích nhà ở bình quân đầu người vào cuối năm 2019 lên 19,81 m2/người. Trong năm 2018, thành phố đã phát triển tăng thêm 11,52 triệu m2 sàn nhà ở, nâng tổng diện tích nhà ở trên địa bàn lên 173,77 triệu m2, diện tích nhà ở bình quân là 19,75 m2/người. (Theo tinnhanhchungkhoan ngày 20/02)
Việc phát triển nhà ở xã hội mới đạt được 33% so với mục tiêu phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và cần hơn 12 triệu m2 nhà ở xã hội nữa. Hiện nay, cả nước đã hoàn thành đầu tư xây dựng 198 dự án nhà ở xã hội, với quy mô xây dựng hơn 81.700 căn hộ, tương đương khoảng 4,1 triệu m2.

Trong đó, Chương trình phát triển nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị đã hoàn thành 98 dự án, có quy mô hơn 40.700 căn hộ. Chương trình phát triển nhà ở xã hội dành cho công nhân khu công nghiệp có 100 dự án hoàn thành với quy mô hơn 41.000 căn hộ. Nhà ở cho học sinh, sinh viên có 89 dự án nhà hoàn thành, đạt tỷ lệ bình quân 82%. (Theo Bộ Xây dựng ngày 21/02)

Chính sách Quyết định 146/QĐ-TTg

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 01/02/2019 phê duyệt Đề án thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát với 3 mục tiêu chính là:

Đánh giá kết quả sản xuất – kinh doanh của khu vực kinh tế chưa được quan sát nhằm phản ánh đầy đủ, toàn diện hơn phạm vi, quy mô của nền kinh tế; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ thống kê nói chung và nghiệp vụ biên soạn tài khoản quốc gia nói riêng, từng bước tiếp cận các chuẩn mực, thông lệ thống kê quốc tế và góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế.

Theo đề án, khu vực kinh tế chưa được quan sát bao gồm: Kinh tế ngầm; kinh tế bất hợp pháp; kinh tế phi chính thức; kinh tế tự sản, tự tiêu của hộ gia đình; hoạt động kinh tế bị bỏ sót. Số liệu kinh tế khu vực này sẽ bắt đầu được đo lường chính thức từ năm 2020.

Quyết định có hiệu lực từ ngày có hiệu lực kể từ ngày ký.

Nhận định

chuyên gia

Ông Đàm Thế Thái, Phó Tổng giám đốc Công ty tài chính tiêu dùng HD Saison (infomoney.vnngày 17/02):

Thị trường tài chính tiêu dùng năm 2019 vẫn theo xu hướng tăng trưởng mạnh. Nhu cầu vay tiêu dùng tại Việt Nam còn rất lớn, do độ thâm nhập của các tổ chức tín dụng chưa cao, nhất là ở vùng nông thôn. Tỷ lệ mua hàng trả góp chỉ khoảng 20 – 25%, nên dư địa còn rất lớn. Nhu cầu mua mới và nâng cấp xe máy, điện thoại, điện máy gia dụng, đồ gỗ nội thất… của người dân sẽ tiếp tục tăng mạnh trong nhiều năm nữa, nên đây sẽ vẫn là sản phẩm chủ lực của các công ty tài chính.

Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (18/02):

Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2018 đạt kết quả tích cực, dự trữ ngoại hối gia tăng mạnh giúp giải tỏa áp lực với tỷ giá, thị trường tiền tệ ổn đinh, lãi suất huy động các tháng tới có thể được duy trì ổn định ở mức hiện tại, thậm chí có thể giảm. Tuy vậy, các rủi ro từ diễn biến quốc tế vẫn còn và có thể thay đổi cục diện rất nhanh.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia ngân hàng (21/02):

Sức ép lên VND trong năm 2019 không quá lớn, nhờ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước được củng cố và duy trì ở mức khá. Giá USD nhiều khả năng sẽ giảm nhẹ trong năm 2019 khi Fed giãn thời gian tăng lãi suất. Ngoài ra, cán cân thương mại tiếp tục thặng dư 7,2 tỷ USD trong năm 2018 sẽ tạo thêm dư địa cho ổn định tỷ giá tại Việt Nam.

Vòng tuần hoàn tín dụng tăng nhanh

Năm 2019, NHNN Việt Nam định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 13%, tín dụng tăng khoảng 14% là hoàn toàn hợp lý, nó vừa dựa trên kết quả tăng trưởng tín dụng trong năm 2018 vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong năm 2019 lấy ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, cũng như các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ.

Trả lời phỏng vấn Thời báo Ngân hàng về vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế TP.HCM, ông Tô Duy Lâm – Giám đốc NHNN TP.HCM cho biết: Phân tích đánh giá về khả năng đáp ứng vốn cho nền kinh tế và vai trò của tín dụng đối với phát triển kinh tế – xã hội TP.HCM trong năm 2018, phản ánh trên 4 phương diện sau:

Thứ nhất, tín dụng trên địa bàn TP.HCM tăng trưởng hợp lý (16%), phù hợp với định hướng của NHNN. Đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng, DN hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực: xuất khẩu, thương mại du lịch và đầu tư, nông nghiệp nông thôn, DNNVV.

Thứ hai, thị trường tiền tệ ổn định, lãi suất, tỷ giá không biến động và ở mức hợp lý phù hợp cung cầu thị trường và theo định hướng điều hành của NHNN, góp phần quan trọng trong việc giữ ổn định vĩ mô, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, tín dụng vẫn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, chiếm khoảng 75% tổng dư nợ. Trong đó tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển, có xu hướng tăng trưởng tốt như: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; Ngành xây dựng; Ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động có khác…

Thứ tư, chất lượng tín dụng cải thiện hơn so với những năm trước đây, tính đến cuối năm 2018 tỷ lệ nợ xấu trên địa bàn còn 2,9% trong tổng dư nợ.

Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2018 thấp hơn so với mọi năm có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp, thưa ông?

Như đã nói ở trên tín dụng đã và đang dần ổn định và tập trung vào sản xuất kinh doanh theo đúng định hướng của NHNN. Tuy nhiên về mặt chỉ số cụ thể tín dụng trong hai năm gần đây đều tăng thấp hơn so với định hướng đề ra, như năm 2018 đầu năm NHNN định hướng toàn hệ thống tăng 17% nhưng đến cuối năm tăng gần 14%.

Ở góc nhìn quản lý đây là xu hướng tích cực xuất phát từ hai yếu tố chính, vốn tín dụng cùng với các nguồn vốn khác trong nền kinh tế, như vốn qua thị trường chứng khoán, vốn của doanh nghiệp, vốn cá nhân, vốn ngân sách… vừa qua đã được khai thác và sử dụng hiệu quả, điều này đã giảm áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng.

Song, vốn tín dụng ngân hàng đã chuyển dịch theo ngành, lĩnh vực kinh tế, phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế thành phố. Đồng thời mở rộng tín dụng vào các ngành chế biến và chế tạo, dịch vụ… đây là những ngành có động lực cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Trong đó, một điểm đáng lưu ý là vòng tuần hoàn tín dụng trong năm qua đã nhanh hơn các năm trước đó.

Theo thống kê của các NHTM, tín dụng trong năm 2018 tăng thấp nhưng doanh số cho vay của các NHTM lại tăng cao. Ví dụ, một đồng vốn cho vay ra của BIDV năm 2017 quay được 3 vòng thì năm 2018 cũng một đồng vốn cho vay ra đã quay được 4 vòng, điều này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đang tăng lên.

Năm 2019, NHNN Việt Nam định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 13%, tín dụng tăng khoảng 14%, ông đánh giá như thế nào?

Chỉ số này theo tôi hoàn toàn hợp lý, nó vừa dựa trên kết quả tăng trưởng tín dụng trong năm 2018 vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong năm 2019 lấy ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, cũng như các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ. Đặc biệt là các giải pháp về củng cố xây dựng nền tảng vững chắc ổn định kinh tế vĩ mô.

 Xin cảm ơn ông!

Theo Thời báo Ngân hàng