Chuyên mục chính

Vai trò của chính sách tiền tệ

Bài viết này là diễn văn nhận chức chủ tịch Hội Kinh tế Mỹ (AES) của Milton Friedman, được phát biểu tại cuộc họp thường niên lần thứ 8 của AES, tại Washington, D. C, ngày 19 tháng 12 năm 1967. “Phần lớn chúng ta đều đồng thuận với các mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế: gia tăng tỷ lệ lao động có việc làm, ổn định giá cả, và tăng trưởng nhanh. Một số người thì cho rằng những mục tiêu này cùng tương hợp hoặc, trong đó có một số thì cho rằng chúng không tương hợp, theo nghĩa chúng có thể và nên được thay thế bởi một đồng thuận khác. Chỉ có một số rất ít đồng thuận về vai trò mà nhiều công cụ chính sách khác có thể và nên đảm trách để đạt được những mục tiêu này. Chủ đề của tôi trong buổi tối ngày hôm nay là vai trò của một trong những công cụ ấy – chính sách tiền tệ. Chính sách này có thể làm gì? Và nó nên được sử dụng như thế nào để đạt được hiệu quả nhất có thể? Các ý kiến xoay quanh những câu hỏi này thường xuyên thay đổi.”

Phần lớn chúng ta đều đồng thuận với các mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế: gia tăng tỷ lệ lao động có việc làm, ổn định giá cả, và tăng trưởng nhanh. Một số người thì cho rằng những mục tiêu này cùng tương hợp hoặc, trong đó có một số thì cho rằng chúng không tương hợp, theo nghĩa chúng có thể và nên được thay thế bởi một đồng thuận khác. Chỉ có một số rất ít đồng thuận về vai trò mà nhiều công cụ chính sách khác có thể và nên đảm trách để đạt được những mục tiêu này.

Chủ đề của tôi trong buổi tối ngày hôm nay là vai trò của một trong những công cụ ấy – chính sách tiền tệ. Chính sách này có thể làm gì? Và nó nên được sử dụng như thế nào để đạt được hiệu quả nhất có thể? Các ý kiến xoay quanh những câu hỏi này thường xuyên thay đổi. Bắt đầu từ lòng nhiệt thành với Hệ thống Dự trữ Liên bang mới được hình thành, nhiều nhà quan sát đã cho rằng chính năng lực tinh chỉnh của hệ thống đã tạo ra sự ổn định tương đối của những năm 1920 – để áp dụng một thuật ngữ hiện đại phù hợp. Nhiều người tin rằng một kỷ nguyên mới đã đến khi các chu kỳ kinh doanh bị xem là lỗi thời bởi những tiến bộ của công nghệ tiền tệ. Quan điểm này được giới kinh tế và tầng lớp thường dân đồng thuận, mặc dù, tất nhiên, cũng có một số tiếng nói bất hòa. Cuộc đại suy thoái (Great Contraction) đã đập tan thái độ ngây thơ này. Quan điểm được chuyển sang một thái cực khác. Chính sách tiền tệ là một sợi dây. Bạn có thể kéo nó để ngăn ngừa lạm phát nhưng bạn không thể dùng nó để chặn đứng cuộc suy thoái. Bạn có thể đưa một con ngựa đi uống nước nhưng bạn không thể bắt nó uống. Kiểu lý thuyết cách ngôn này đã sớm bị thay thế bởi phân tích tinh vi và chính xác của Keynes.

Keynes đã cùng lúc đưa ra một lời giải về sự bất lực giả định của chính sách tiền tệ để dập tắt cuộc khủng hoảng, một diễn giải phi tiền tệ về cuộc khủng hoảng, và một diễn giải thay thế chính sách tiền tệ để giải quyết cuộc khủng hoảng và đề xuất của ông ấy đã được chấp nhận với đầy khao khát. Nếu ưa thích thanh khoản là có thật hoặc gần như thế – bởi Keynes khá tin vào thời kỳ thất nghiệp cao – thì lãi suất không thể bị hạ thấp bởi những tính toán tiền tệ. Nếu đầu tư và tiêu dùng ít bị ảnh hưởng bởi lãi suất – như Hansen và nhiều môn đồ khác của Keynes ở Mỹ tin là như vậy – hạ thấp lãi suất, thậm chí khi có thể đạt được, sẽ không tạo ra điều gì tốt cả. Chính sách tiền tệ đã hai lần bị chỉ trích. Cuộc suy thoái bắt đầu, theo quan điểm này, do sụt giảm đầu tư hoặc thiếu cơ hội đầu tư hoặc do tiết kiệm quá mức, không thể, được cho là, bị chặn đứng bởi những tính toán tiền tệ. Nhưng còn có một chính sách tài khóa thay thế có thể sử dụng. Chi tiêu chính phủ có thể thay thế đầu tư tư nhân không hiệu quả. Giảm thuế có thể giúp giải quyết vấn đề tiết kiệm quá mức.

Việc chấp nhận rộng rãi những quan điểm này trong giới kinh tế cho thấy, trong khoảng hai thập kỷ chính sách tiền tệ đã được mọi người tin dùng ngoại trừ một số kẻ đối lập vẫn bám víu vào lý thuyết của kinh tế học mới. Tiền không phải là vấn đề. Nó chỉ đóng một vai trò nhỏ là giữ lãi suất ở mức thấp, để giảm thanh toán lãi suất của ngân sách chính phủ, góp phần vào “tinh thần tử vì đạo của người thực lợi,” và có thể, kích thích nhẹ hoạt động đầu tư để hỗ trợ chi tiêu chính phủ nhằm duy trì một mức tổng cầu cao.

Những quan điểm này khiến chính sách tiền rẻ sau chiến tranh được áp dụng rộng rãi. Và giới kinh tế đã phải nhận một cú sốc khủng khiếp khi những chính sách này thất bại ở từng nước một, khi từng ngân hàng trung ương buộc phải gạt bỏ tính tự phụ vì rõ ràng không thể giữ lãi suất ở mức thấp. Ở đất nước này, kết cục tương tự cũng xảy ra với Hòa ước giữa Bộ Tài chính – Cục dự trữ Liên bang năm 1951, mặc dù chính sách neo giá trái phiếu của chính phủ không chính thức bị bãi bỏ cho đến tận 1953. Lạm phát, bắt nguồn từ chính sách tiền rẻ, không phải do khủng hoảng hậu chiến tranh được tiên liệu rộng rãi trước đó, làm mất đi trật tự của thời đại. Điều này khởi đầu cho sự hồi phục niềm tin vào sự hiệu nghiệm của chính sách tiền tệ.

Sự hồi phục này được ấp ủ mạnh mẽ trong giới kinh tế bằng những phát triển về lý thuyết được Haberler khởi xướng nhưng lại được biết đến bởi Pigou, đã chỉ ra một phương thức – đặc biệt, thay đổi về của cải – mà nhờ đó thay đổi lượng tiền thực tế có thể tác động đến tổng cầu mà thậm chí không làm thay đổi lãi suất. Những phát triển lý thuyết này không khiến lập luận của Keynes chống lại sức mạnh của những tính toán tiền tệ chính thống suy yếu, khi ưa thích thanh khoản được ưa chuộng trong những điều kiện mà việc điều hành tiền tệ thông thường đơn giản là bao gồm việc thay thế tiền cho những tài sản khác mà không làm thay đổi tổng lượng của cải. Nhưng họ đã chỉ ra những thay đổi về lượng tiền xuất hiện như thế nào theo nhiều cách khác nhau có thể ảnh hưởng đến tổng chi tiêu thậm chí trong những tình huống như vậy. Và, cơ bản hơn nữa, họ tấn công luận điểm lý thuyết chủ đạo của Keynes, rằng thậm chí trong một thị trường giá linh hoạt, một trạng thái cân bằng tại mức toàn dụng lao động có thể không tồn tại. Từ nay về sau, thất nghiệp lại phải được giải thích bởi tính cứng nhắc hoặc tính không hoàn hảo, mà không phải bởi sản lượng tự nhiên của một quá trình được điều tiết hoàn toàn bởi thị trường.

Sự hồi phục niềm tin trong cuộc tấn công chính sách tiền tệ được ấp ủ cũng bởi một cuộc tái lập vai trò của tiền tệ từ năm 1929 đến 1933. Keynes và hầu hết các nhà kinh tế trong thời đại này tin rằng Đại khủng hoảng ở Mỹ xảy ra là bởi những chính sách tiền tệ bành trướng quá mức do các cơ quan tiền tệ – khi họ đã làm tốt nhất có thể nhưng vẫn chưa đủ tốt.4 Những nghiên cứu gần đây đã cho thấy thực tế hoàn toàn ngược lại: Các cơ quan tiền tệ của Mỹ đã áp dụng chính sách kiềm chế lạm phát triệt để. Lượng tiền trong nước Mỹ đã giảm 1/3 trong giai đoạn khủng hoảng. Và nó giảm không phải bởi không có những người sẵn sàng cho vay – không phải bởi con ngựa không uống nước. Nó giảm bởi Hệ thống Cục dự trữ Liên bang đã cố áp hoặc cho phép một mức giảm rõ rệt lượng tiền cơ sở, bởi Cục đã thất bại trong việc thực thi trách nghiệm được ấn định trong Hiến định của Cục dự trữ Liên bang về việc cung cấp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Đại khủng hoảng là bằng chứng rõ ràng về sức mạnh của chính sách tiền tệ – không phải, như Keynes và nhiều môn đồ của ông tin rằng, là bằng chứng cho sự bất lực của nó.

Ở Mỹ, sự hồi phục niềm tin vào sự hiệu nghiệm của chính sách tiền tệ đã được củng cố cũng bởi mọi người đã vỡ mộng với chính sách tài khóa, khi nó không có nhiều khả năng tác động tới tổng cầu cũng như không có tính khả thi trong thực tiễn và chính trị. Trong nỗ lực điều chỉnh hoạt động của toàn nền kinh tế, các khoản chi tiêu dần phản ứng chậm chạp và có độ trễ cao, vì thế mối quan tâm chuyển vào thuế. Nhưng ở đây những yếu tố chính trị tham gia hoàn toàn là để ngăn sự điều chỉnh tức thời với nhu cầu được dự đoán, như đã được trình bày bằng đồ họa trong hàng tháng từ khi tôi viết bản nháp đầu tiên của bài phát biểu này. “Tinh chỉnh” là một cụm từ có chất gợi kỳ diệu trong thời đại điện tử này, nhưng nó không giống `lắm với, tôi bổ sung thêm, một điều thuần ác có thể xảy ra trong thực tiễn.

Rất khó để nhận ra quan điểm của giới kinh tế về vai trò của tiền tệ đã thay đổi căn bản như thế nào. Hiếm có một nhà kinh tế nào ngày nay chấp nhận các quan điểm được xem là bịa đặt trong khoảng hai thập kỷ qua. Tôi sẽ trích ở đây một vài ví dụ.

Trong cuộc trao đổi được công bố năm 1945, E. A. Goldenweiser, sau đó là Giám đốc của Bộ phận Nghiên cứu của Ủy ban Dự trữ Liên bang, đã cho rằng mục đích cơ bản của chính sách tiền tệ là để “duy trì giá trị của trái phiếu chính phủ… Đất nước này sẽ phải điều chỉnh lãi suất lên 2.5% bằng lợi nhuận trên tiền lâu dài, an toàn, bởi thời gian thích hợp khi lợi nhuận của vốn tiên phong có thể không còn bị giới hạn như trong quá khứ nữa” [4, trang 117].

Trong một cuốn sách có tên Tài trợ cho sự thịnh vượng của nước Mỹ (Financing American Prosperity), do Paul Homan và Fritz Machlip chủ biên, xuất bản năm 1945, Alvin Hansen đã dành 9 trang để nói về “vấn đề tiết kiệm-đầu tư” mà không có bất kỳ nhu cầu sử dụng từ “lãi suất” nào hoặc bất kỳ mô phỏng nào gần gũi hơn nữa [5, pp. 218-27]. Trong tập này, Fritz Machlup đã viết, “Những nghi vấn về lãi suất, đặc biệt là về sự biến động hoặc ổn định của nó, có thể không nằm trong những vấn đề quan trọng nhất của nền kinh tế hậu chiến tranh, nhưng chúng thực sự là những vấn đề rắc rối” [5, p. 466] Trong phần của mình, John H. Williams – không chỉ là giáo sư tại Harvard mà còn là một cố vấn kỳ cựu cho Ngân hàng Dự dữ Liên bang New York – viết “Tôi không thấy một viễn cảnh nào về sự hồi phục việc kiểm soát tiền tệ hoàn toàn trong giai đoạn hậu chiến tranh” [5, p. 383].

Một phần khác trong những tập này đề cập tới chính sách hậu chiến tranh đã xuất hiện tại thời điểm này, Hoạch định và Thanh toán cho Toàn dụng Lao động (Planning and Paying for Full Employment), do Abba P. Lerner và Frank D. Graham chủ biên [6] và gồm những tác giả mang tất cả những sắc thái quan điểm chuyên gia – từ Henry Simons và Frank Graham đến Abba Lerner và Hans Neisser. Tuy Albert Halasi, trong bài tổng hợp xuất sắc của mình, đã có thể nói “Những tác giả của chúng tôi không thảo luận những câu hỏi về cung tiền…Chúng tôi cũng không quan tâm đặc biệt đến chính sách tín dụng để chữa vết thương của cuộc khủng hoảng…Lạm phát…có thể được giải quyết hiệu quả hơn bằng cách tăng lãi suất…Nhưng…Những tính toán chống lạm phát khác…có thể được ưa dùng hơn” [6, pp. 23-24]. Nghiên cứu về Kinh tế học Đương đại (A Survey of Contemporary Economics), do Howard Ellis chủ biên xuất bản năm 1948, là một nỗ lực “chính thức” nhằm soạn thảo trạng thái tư tưởng kinh tế của thời đại. Trong phần của mình, Arthur Smithies viết, “Trong khuôn khổ hoạt động bồi thường, tôi tin rằng phải dùng chính sách tài khóa nhiều hơn. Đối thủ chính của nó, chính sách tiền tệ, dường như không phù hợp trong bối cảnh thể chế này. Đất nước này dần cam kết hơn với những thứ như mức lãi suất thấp hiện tại trên một cơ sở lâu dài” [1, p.208].

Những trích dẫn này cho thấy kiểu tư tưởng của giới chuyên gia cách đây khoảng hai thập kỷ. Nếu bạn muốn đi xa hơn trong cuộc điều tra khiêm tốn này, tôi khuyên bạn nên so sánh những phần nói về tiền tệ – khi bạn tìm thấy chúng – trong những cuốn sách Nguyên lý trong những năm đầu hậu chiến tranh với những phần dài bị cắt bỏ hiện tại, hoặc đặc biệt, khi những nguyên lý trước đó và gần đây là những ấn bản khác của cuốn sách đã nói ở trên.

Con lắc đã dao động mạnh hơn kể từ đó, nếu không phải là tất cả những tư tưởng dẫn đến quan điểm của cuối những năm 1920, thì ít nhất là gần với quan điểm ấy hơn với quan điểm của năm 1945. Đương nhiên có nhiều sự khác biệt giữa thời điểm đó và bây giờ, ít trong cuộc tấn cống được cho là nhằm vào chính sách tiền tệ hơn là những vai trò mà nó đảm nhiệm và tiêu chuẩn mà giới chuyên gia tin rằng chính sách tiền tệ nên đi theo. Sau đó, vai trò chính của chính sách tiền tệ là thúc đẩy ổn định giá cả và bảo vệ chuẩn bản vị vàng; tiêu chuẩn chính của chính sách tiền tệ là trạng thái của “thị trường tiền tệ”, mở rộng “đầu cơ” và sự dịch chuyển của vàng. Ngày nay, vai trò cơ bản được cho là thúc đẩy toàn dụng lao động, bằng cách ngăn ngừa lạm phát, mục tiêu vẫn tiếp tục nhưng rõ ràng là bị đẩy xuống vị trí thứ hai. Và có một bất đồng lớn về tiêu chuẩn chính sách, từ việc nhấn mạnh vào những điều kiện của thị trường tiền tệ, lãi suất và lượng tiền, đến niềm tin rằng trạng thái lao động nên là tiêu chuẩn tương đương của chính sách.

Tuy nhiên tôi nhấn mạnh đến sự tương đồng giữa những quan điểm thắng thế trong cuối thế kỷ 20 và những quan điểm đang thịnh hành bởi tôi sợ rằng, bây giờ và sau này, con lắc có thể xoay đi quá xa, và, chúng ta gặp nguy hiểm khi giao cho chính sách tiền tệ một vai trò lớn hơn khả năng của nó, khi yêu cầu nó hoàn thành những nhiệm vụ mà nó không thể hoàn thành, và hệ quả là, rất nguy hiểm khi ngăn cản nó làm những điều mà nó có thể làm.

Tôi hiếm khi phải chê bai tầm quan trọng của tiền tệ, do đó, nhiệm vụ trước tiên của tôi sẽ là nhấn mạnh vào những gì mà chính sách tiền tệ không thể đảm nhiệm. Sau đó, tôi sẽ cố gắng vạch ra những điều mà nó có thể làm và cách nó có thể làm tốt nhất, trong khả năng hiểu biết – hoặc hạn chế hiện tại của chúng ta.

  1. Chính sách Tiền tệ không thể làm gì

Từ vô vàn những điều phủ định, tôi lựa chọn ra đây hai hạn chế của chính sách tiền tệ để thảo luận: (1) Không thể neo lãi suất trong hơn mọi giai đoạn giới hạn; (2) Không thể ổn định tỷ lệ thất nghiệp trong hơn mọi giai đoạn giới hạn. Tôi lựa chọn hai điều này bởi sự tương phản giữa chúng hoặc chúng được công nhận rộng rãi, bởi chúng đảm nhiệm hai nhiệm vụ chính không thể hoàn thành được gán cho chính sách tiền tệ, và quan trọng là bởi những phân tích lý thuyết tương tự của cả hai.

Neo lãi suất

Lịch sử đã chứng minh cho hầu hết mọi người về hạn chế đầu tiên này. Như đã lưu ý trước đó, thất bại của chính sách tiền rẻ là nguyên nhân chính của phản ứng chống lại chủ nghĩa Keynesian đơn giản. Ở Mỹ, phản ứng này bao gồm sự công nhận rộng rãi rằng trong thời chiến và hậu chiến, việc neo giá trái phiếu là một sai lầm, việc ngăn cản chính sách này là một bước đi cần thiết và đáng mong đợi, và không có hệ quả kinh khủng và ghê gớm nào được dự đoán một cách thẳng thắn trong thời gian này.

Hạn chế này bắt nguồn từ một đặc điểm được hiểu sai khá nhiều về mối quan hệ giữa tiền tệ và lãi suất. Hãy để Cục Dự trữ Liên bang xử lý để giữ lãi suất thấp. Cục Dự trữ Liên bang cố gắng thực hiện điều này như thế nào? Bằng cách mua cổ phiếu. Điều này khiến giá của chúng tăng lên và hạ thấp lợi nhuận của chúng xuống. Trong quá trình này, hành động của FED cũng làm tăng lượng dự trữ có thể đối với các ngân hàng, sau đó là lượng tín dụng ngân hàng, và, cuối cùng là tổng lượng tiền. Đó là lý do tại sao, đặc biệt với các ngân hàng trung ương, và rộng hơn là cộng đồng tài chính, nhìn chung tin rằng khi lượng tiền tăng sẽ làm hạ lãi suất. Các nhà kinh tế tháp ngà chấp nhận kết luận tương tự, nhưng vì những lý do khác. Họ thấy, trong mắt của mình, một kế hoạch ưa thích thanh khoản dốc xuống. Mọi người có thể bị xui khiến bằng cách nào để giữ một lượng tiền lớn? Cách duy nhất là chờ khi hạ lãi suất.

Cả hai đều đúng, ở chung một điểm. Tác động đầu tiên của việc tăng lượng tiền với một tốc độ nhanh hơn là để khiến lãi suất thấp hơn so với mức bình thường trong một thời gian. Nhưng điều này chỉ là khởi đầu chứ không phải điểm kết thúc của quá trình. Tốc độ tăng trưởng tiền tệ càng nhanh, sẽ kích thích tiêu dùng, vừa thông qua tác động vào đầu tư của thị trường lãi suất thấp vừa thông qua tác động vào tiêu dùng khác và do đó giá tương quan của cân bằng tiền mặt cao hơn mức kỳ vọng. Nhưng chi tiêu của người này sẽ là thu nhập của người khác. Tăng thu nhập sẽ làm tăng kế hoạch thanh khoản và nhu cầu vay nợ; và cũng làm tăng giá, vì thế sẽ giảm lượng tiền thực tế. Những tác động này sẽ đảo ngược áp lực giảm ban đầu lên lãi suất một cách công bằng, ví dụ, trong một giai đoạn dưới một năm. Cùng với đó họ sẽ dự định, sau khoảng một quãng nghỉ dài hơn, ví dụ, từ một đến hai năm, để đưa lãi suất trở lại mức ban đầu. Quả thực, với giả định khuynh hướng phản ứng quá mức của nền kinh tế, chúng có thể tăng lãi suất tạm thời vượt ra khỏi mức đó, thiết lập một quá trình điều chỉnh theo chu kỳ.

Một tác động thứ tư, khi và nếu nó đi vào hoạt động, thậm chí sẽ đi xa hơn, và chắc chắn nghĩa là một mức bành trướng tiền tệ cao sẽ phản ứng lại một mức lãi suất cao hơn, chứ không thấp hơn là sẽ được kỳ vọng. Hãy để mức tăng trưởng tiền tệ cao hơn làm tăng mức giá, và hãy để công chúng kỳ vọng rằng mức giá sẽ tiếp tục tăng. Những người vay tiền từ đó sẽ sẵn sàng trả và người cho vay thì sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn – như Irving Fisher đã chỉ ra cách đây vài thập kỷ. Ảnh hưởng kỳ vọng về mức giá này sẽ dần dần phát triển và cũng chầm chậm biến mất. Fisher đã dự đoán rằng sẽ mất  vài thập kỷ để hoàn tất việc điều chỉnh và ngày càng nhiều những công trình gần đây nhất quán với phỏng đoán này của ông.

Những ảnh hưởng có tính hệ quả này giải thích tại sao mọi nỗ lực giữ lãi suất ở mức thấp đã thúc đẩy cơ quan tiền tệ tham gia vào việc mua bán trên những thị trường mở cực lớn. Chúng giải thích tại sao, về mặt lịch sử, lãi suất danh nghĩa cao và tăng lại phù hợp với tăng trưởng nhanh về lượng tiền, như ở Brazil hay Chile và Mỹ những năm gần đây, và tại sao lãi suất thấp và giảm lại phù hợp với tăng trưởng lượng tiền chậm như ở Thụy Sĩ hiện nay và ở Mỹ giai đoạn 1929 – 1933. Dựa trên kinh nghiệm, lãi suất thấp là một tín hiệu cho thấy chính sách tiền tệ đang thắt chặt theo nghĩa lượng tiền đã tăng chậm lại, lãi suất cao là một tín hiệu cho thấy chính sách tiền tệ đang buông lỏng – theo nghĩa lượng tiền đang tăng nhanh. Nhưng thực tế trải nghiệm lại đi ngược lại hoàn toàn khỏi cái mà giới tài chính và giới chuyên môn gần như bỏ ngỏ.

Nghịch lý là, cơ quan tiền tệ có thể đảm bảo lãi suất danh nghĩa ở mức thấp – nhưng để làm thế họ sẽ phải sử dụng cái dường như là hướng đối nghịch lại, bằng cách sử dụng chính sách tiền tệ chống lạm phát. Tương tự như thế, họ có thể đảm bảo lãi suất danh nghĩa ở mức cao bằng cách sử dụng chính sách lạm phát và chấp nhận sự dịch chuyển tạm thời của lãi suất theo hướng ngược lại.

Những cân nhắc này không chỉ giải thích tại sao chính sách tiền tệ không thể neo lãi suất, mà nó còn giải thích tại sao lãi suất là một chỉ báo sai lầm cho việc liệu chính sách tiền tệ đang “nới lỏng” hay “thắt chặt”. Vì thế, sẽ tốt hơn khi nhìn vào mức độ thay đổi của lượng tiền.5

Lao động là một Tiêu chuẩn Chính sách

Giới hạn thứ hai mà tôi muốn thảo luận phần nhiều là chống lại lối tư duy hiện tại. Tăng trưởng tiền tệ, thường được biết, sẽ làm tăng lượng việc làm; khủng hoảng tiền tệ sẽ làm cản trở việc làm. Nếu thế thì tại sao, cơ quan tiền tệ không thể áp dụng một mục tiêu cho việc làm hay thất nghiệp – giả dụ, 3% thất nghiệp; sẽ là thắt chặt khi thất nghiệp thấp hơn mức mục tiêu; nới lỏng khi thất nghiệp cao hơn mục tiêu; và theo cách này neo thất nghiệp ở mức, giả dụ, 3%? Vấn đề là không thể làm chính sách như thế với lãi suất – sự khác biệt giữa hệ quả ngay lập tức và độ trễ của một chính sách  Nhờ có Wicksell, tất cả chúng ta đã biết định nghĩa về lãi suất “tự nhiên” và khả năng tương phản giữa lãi suất “tự nhiên” và lãi suất “thị trường”. Phân tích trước đó về lãi suất có thể được diễn giải một cách công bằng trực tiếp theo khái niệm của Wicksell. Cơ quan tiền tệ có thể làm lãi suất thị trường thấp hơn lãi suất tự nhiên bằng cách tạo ra lạm phát. Và có thể khiến lãi suất thị trường cao hơn lãi suất tự nhiên bằng giảm phát. Chúng ta chỉ thêm một chút vào ý tưởng của Wicksell – Sự phân biệt của Irving Fisher giữa lãi suất danh nghĩa và thực tế. Hãy để cơ quan tiền tệ giữ lãi suất thị trường danh  nghĩa một thời gian dưới lãi suất tự nhiên bằng lạm phát. Điều đó ngược lại sẽ làm tăng bản thân lãi suất danh nghĩa tự nhiên; khi những dự báo về lạm phát được mọi người biết tới, do đó vẫn yêu cầu lạm phát nhanh hơn để giữ lãi suất thị trường ở mức thấp. Tương tự như thế, vì ảnh hưởng của Fisher, cơ quan tiền tệ sẽ không chỉ yêu cầu giảm phát mà còn giảm phát cực nhanh để giữ lãi suất thị trường cao hơn mức “tự nhiên” ban đầu.

Phân tích này có bản sao gần giống trong thị trường lao động. Tại bất kỳ thời điểm nào, tồn tại một mức thất nghiệp có tính nhất quán với điểm cân bằng trong cấu trúc của tỷ lệ lương thực tế. Tại mức thất nghiệp này, lương thực tế luôn luôn ở mức trung bình để tăng lên một tỷ lệ cũ “thông thường”, ví dụ, tại một mức có thể được duy trì không rõ ràng rất lâu như nền tảng vốn, những tiến bộ công nghệ, vân vân, duy trì trong xu hướng dài hạn của chúng. Một mức thất nghiệp thấp hơn là một chỉ báo rằng cầu lao động đang vượt mức và sẽ tạo ra áp lực tăng lương thực tế. Một mức thất nghiệp cao hơn là một chỉ báo rằng cung lao động đang vượt mức, và sẽ tạo ra áp lực giảm lương thực tế. Nói cách khác, mức “tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên” sẽ được xác định bởi hệ thống các phương trình cân bằng tổng quát của Walras, được áp vào những đặc tính cấu trúc thực sự của thị trường lao động và hàng hóa, bao gồm tính không hoàn hảo của thị trường, tính đa dạng ngẫu nhiên về cung và cầu, chi phí thu thập thông tin về việc làm và lượng lao động, chi phí dịch chuyển, và nhiều hơn nữa.6

Bạn sẽ nhận ra mối tương đồng gần gũi giữa quan điểm này và đường Phillip. Mối tương đồng này không hề ngẫu nhiên. Phân tích của Phillips về mối quan hệ giữa thất nghiệp và sự thay đổi của lương xứng đáng được xem là đóng góp nền tảng và quan trọng. Nhưng, không may là, nó vẫn có một lỗ hổng cơ bản – thất bại trong việc phân biệt giữa lương danh nghĩa và lương thực tế – cũng như phân tích của Wicksell đã thất bại trong việc phân biệt giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế. Nói một cách hàm ý thì, Phillips đã viết bài luận của mình về một thế giới mà trong đó mọi người đã dự báo rằng giá danh nghĩa sẽ ổn định và trong đó việc dự báo đã duy trì không thay đổi bất kỳ điều gì đã diễn ra với lương và giá thực tế. Giả định, theo hướng ngược lại, mọi người dự báo rằng giá sẽ tăng ở mức khoảng hơn 75% một năm – ví dụ, như những người Brazil đã làm cách đây vài năm. Sau đó lương phải tăng lên mức đơn giản là để giữ lương thực tế không đổi. Cung lao động vượt mức sẽ được phản ánh trong mức tăng không quá nhanh của lương danh nghĩa hơn là trong mức giá được dự báo7, không phải trong một mức giảm hoàn toàn của lương. Khi Brazil đưa ra một chính sách để hạ mức tăng của giá, và đã thành công trong việc hạ mức tăng của giá về khoảng 45% một năm, trước tiên khiến mức thất nghiệp tăng rõ ràng bởi ảnh hưởng của những dự báo trước đó, mức lương đã tiếp tục tăng đến một điểm cao hơn mức tăng mới của giá, mặc dù thấp hơn mức ban đầu. Đây là kết quả đã trải qua, và được kỳ vọng, bằng tất cả những nỗ lực để giảm mức lạm phát xuống dưới mức được dự báo trước đó.8

Để tránh hiểm nhầm, tôi muốn nhấn mạnh rằng, với việc sử dụng cụm từ tỷ lệ thất nghiệp “tự nhiên”, tôi không có ý cho rằng nó không thể thay đổi và cố định. Ngược lại, nhiều đặc tính xác định các mức độ của thị trường phụ thuộc vào con người và chính sách. Ở Mỹ, ví dụ, tỷ lệ lương tối thiểu hợp pháp, Đạo luật Walsh-Healy và Davis-Bacon, và sức mạnh của các công đoàn lao động khiến tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cao hơn mức kỳ vọng. Những cải tiến về trao đổi lao động, về khả năng thông tin cơ hội việc làm và nguồn cung lao động, và hơn nữa, sẽ luôn hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Lý do mà tôi sử dụng cụm từ “tự nhiên” cũng giốngmà Wicksell đưa ra – để cố gắng phân biệt những lực lượng thực tế với những lực lượng tiền tệ.

Chúng ta hãy giả định rằng cơ quan tiền tệ cố gắng neo tỷ lệ thất nghiệp “thị trường” ở dưới mức “tự nhiên”. Để xác định, giả sử lấy 3% là tỷ lệ mục tiêu và tỷ lệ tự nhiên cao hơn 3%. Cũng giả sử rằng chúng ta bắt đầu vào thời điểm khi giá ổn định và khi thất nghiệp cao hơn 3%. Theo đó, cơ quan tiền tệ sẽ tăng tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Đây được xem là bành trướng tiền tệ. Bằng cách làm cho cân bằng tiền danh nghĩa cao hơn mức kỳ vọng của người dân, ban đầu nó sẽ có khuynh hướng hạ lãi suất và theo cách này hoặc cách khác để kích thích tiêu dùng. Thu nhập và chi tiêu sẽ bắt đầu tăng.

Ban đầu, phần nhiều hoặc hầu hết gia tăng về thu nhập sẽ làm gia tăng sản lượng và lao động hơn là gia tăng giá cả. Mọi người đang kỳ vọng giá cả sẽ ổn định, và giá và lương được thiết lập trong tương lai dựa trên nền tảng cơ sở này. Mọi người sẽ mất thời gian để điều chỉnh sang một trạng thái nhu cầu mới. Các nhà sản xuất sẽ có khuynh hướng phản ứng lại sự gia tăng ban đầu của tổng cầu bằng cách tăng sản lượng, công nhân phải làm thêm giờ, và những người thất nghiệp sẽ có được công việc cung cấp mức lương danh nghĩa trước đó. Điều này khá giống với lý thuyết chuẩn.

Nhưng nó chỉ mô tả những ảnh hưởng ban đầu. Bởi giá bán sản phẩm thường phản ứng theo mức tăng ngẫu nhiên của cầu danh nghĩa nhanh hơn giá của các yếu tố sản suất, lương thực tế được nhận sẽ giảm – mặc dù lương thực tế được người lao động dự báo là tăng, bởi những người lao động hoàn toàn ước lượng mức lương đưa ra tại điểm giá trước đó. Quả thực, sự sụt giảm đồng thời trước đó của lương thực tế của người chủ lao động và việc tăng sau đó của lương thực tế với người lao động khiến cho tỷ lệ lao  động tăng. Nhưng sự sụt giảm trước đó của lương thực tế sẽ sớm tác động đến những dự báo. Người lao động sẽ bắt đầu dựa vào việc tăng giá của những thứ mà họ mua và để yêu cầu về lương danh nghĩa cao hơn trong tương lai. Thất nghiệp “thị trường” ở dưới mức “tự nhiên”. Cầu lao động vượt mức, nên lương thực tế sẽ có xu hướng tăng về mức ban đầu.

Mặc dù vậy tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao vẫn tiếp tục, mức tăng của lương thực tế sẽ làm đảo chiều sụt giảm thất nghiệp, và sau đó khiến nó tăng lên, có khuynh hướng đưa thất nghiệp trở lại mức ban đầu. Để giữ thất nghiệp ở mức mục tiêu 3%, cơ quan tiền tệ sẽ phải tiếp tục tăng tăng trưởng tiền tệ nhiều hơn. Như trường hợp với lãi suất, mức “thị trường” có thể được giữ dưới mức “tự nhiên” chỉ bằng công cụ lạm phát. Và như trong trường hợp lãi suất, cũng, chỉ bằng cách gia tăng lạm phát. Ngược lại, hãy để cơ quan tiền tệ chọn một mức thất nghiệp cao hơn mức tự nhiên, và họ sẽ buộc phải giảm phát và lạm phát cùng một lúc.

Điều gì sẽ xảy ra nếu cơ quan tiền tệ chọn tỷ lệ “tự nhiên – hoặc là lãi suất hoặc là thất nghiệp – để làm mục tiêu? Vấn đề ở đây là họ không thể biết tỷ lệ “tự nhiên” là bao nhiêu. Không may là, chúng ta vẫn chưa tìm ra phương pháp để tính chính xác và dễ dàng tỷ lệ tự nhiên của lãi suất và thất nghiệp. Và tỷ lệ “tự nhiên” sẽ tự thay đổi theo thời gian. Nhưng vấn đề cơ bản là thậm chí cơ quan tiền tệ biết tỷ lệ “tự nhiên”, và cố gắng neo tỷ lệ thị trường tại điểm đó, thì chúng ta cũng sẽ không thể có một chính sách rõ ràng. Tỷ lệ “thị trường” sẽ thay đổi theo tỷ lệ tự nhiên vì nhiều lý do khác hơn là chính sách tiền tệ. Nếu cơ quan tiền tệ phản ứng với những biến động này, những ảnh hưởng lâu dài hơn sẽ xuất hiện và khiến bất kỳ con đường tăng trưởng tiền tệ nào mà nó theo đuổi cuổi cùng sẽ nhất quán với quy luật của chính sách. Quá trình thực sự của tăng trưởng tiền tệ sẽ diễn ra như một cuộc dạo chơi ngẫu nhiên, chống chọi theo cách này hay cách khác bằng thứ sức mạnh sẽ sản sinh ra những chệch hướng tạm thời của tỷ lệ thị trường so với tỷ lệ tự nhiên.

Phát biểu kết luận này một cách khác biệt thì, luôn có một sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp; và không có đánh đổi mãi mãi. Đánh đổi tạm thời không đến từ bản thân lạm phát, mà đến từ lạm phát được dự báo, thường ám chỉ, từ một mức tăng của lạm phát. Mọi người tin rằng tổn tại sự đánh đổi mãi mãi là một phiên bản phức tạp của sự cân nhắc giữa “cao” và “ gia tăng” rằng tất cả chúng ta đều nhận ra trong những trường hợp đơn giản hơn. Một mức tăng của lạm phát có thể làm giảm thất nghiệp, nhưng một mức cao thì không.

Nhưng, bạn sẽ thắc mắc, vậy “tạm thời” là bao lâu? Với lãi suất, chúng ta có một vài chứng cứ từ hệ thống về thời gian mỗi một tác động diễn ra. Với thất nghiệp, chúng ta không có chứng cứ nào. Tôi có thể mạo hiểm đưa ra một đánh giá cả nhân, dựa trên một số nghiên cứu về bằng chứng lịch sử, rằng những ảnh hưởng ban đầu của một mức lạm phát cao hơn và không được dự báo sẽ kéo dài đâu đó khoảng hai đến năm năm; và ảnh hưởng ban đầu này rồi sẽ bắt đầu bị đảo chiều; và một điều chỉnh tổng thể với mức lạm phát mới sẽ diễn ra lâu như với thất nghiệp và lạm phát, ví dụ, khoảng hai thập kỷ. Với lãi suất và phạm phát, hãy để tôi thêm vào một đặc điểm. Những đánh giá này dùng  cho những thay đổi trong tỷ lệ lạm vô cùng lớn mà nước Mỹ trải qua. Với những thay đổi to lớn hơn, như những gì đã xảy ra ở các quốc gia Nam Mỹ, quá trình điều chỉnh tổng thể sẽ được tăng tốc mạnh mẽ hơn.

Kết lại luận điểm chung vẫn khác biệt này, cơ quan tiền tệ kiểm soát lượng danh nghĩa – cụ thể là, là lượng trách nhiệm chủ sở hữu của nó. Về cơ bản, nó có thể sử dụng quyền này để neo lượng danh nghĩa – mức tỷ giá hối đoái, mức giá, mức thu nhập quốc dân danh nghĩa, lượng tiền bởi một hoặc nhiều định nghĩa – hoặc để ghim lãi suất vào một lượng danh nghĩa – mức lạm phát hoặc giảm phát, mức tăng trưởng hoặc suy thoái bằng thu nhập quốc dân danh nghĩa, mức tăng trưởng của lượng tiền. Nó không thể sử dụng quyền kiểm soát này với lượng danh nghĩa để neo lượng thực tế – lãi suất, thất nghiệp thực tế, mức thu nhập quốc dân thực tế, lượng tiền thực tế, mức tăng trưởng thu nhập quốc dân thực tế, hay mức tăng trưởng lượng tiền thực tế

2. Chính sách Tiền tệ có thể làm gì

Chính sách tiền tệ không thể neo những biến thực tế tại những điểm xác định trước. Nhưng chính sách tiền tệ có thể và tạo ra những ảnh hưởng quan trọng lên những biến thực tế này. Luận điểm trước không hề mâu thuẫn với luận điểm sau.

Nghiên cứu của tôi về lịch sử tiền tệ đã khiến tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm thường bị hiểu sai, thường được trích dẫn và nhận nhiều chỉ trích của John Stuart Mill. Ông viết “Về bản chất, trong một nền kinh tế xã hội, không thể có điều gì kém quan trọng hơn tiền tệ; ngoại trừ trong trường hợp một kế hoạch tiết kiệm thời gian và lao động. Nó là một cố máy giúp hoàn thành công việc nhanh chóng và hăng hái, mặc dù kém nhanh chóng và hăng hái, nếu thiếu nó: và như nhiều loại máy khác, nó chỉ cố gắng tạo ra ảnh hưởng độc lập và khác biệt khi nằm ngoài khuôn khổ” [7, trang 488].

Thực vậy, tiền chỉ là một cỗ máy, nhưng là một cỗ máy cực kỳ hiệu quả. Nếu không có nó, chúng ta không thể bắt đầu có được tăng trưởng vượt bậc về sản lượng và mức sống mà chúng ta đã hưởng thụ trong hai thế kỷ qua – hơn bất kỳ thứ gì chúng ta có thể làm mà không có những cỗ máy thần kỳ khác rải rác trên đất nước của chúng ta và cho phép chúng ta, hầu hết, đơn giản là hoàn thành công việc hiệu quả hơn khi mà không có chúng với chi phí lao động lớn hơn rất nhiều.

Nhưng tiền cũng có một đặc điểm mà những cỗ máy khác không có. Bởi vì nó quá lan tỏa, nên khi vượt ra khỏi khuôn khổ, nó trở thành một con khỉ làm hỗn loạn hoạt động của tất cả các cỗ máy khác. Đại Khủng hoảng là một ví dụ kinh hoàng nhất nhưng không phải là duy nhất. Mọi cuộc khủng hoảng khác trên đất nước này đều đã được sinh ra từ sự mất ổn định tiền tệ hoặc gia tăng quá mức bởi mất ổn định tiền tệ. Mọi cuộc lạm phát lớn đều sinh ra bởi bành trướng tiền tệ – hầu hết để đáp ứng nhu cầu vượt mức của chiến tranh đã thúc đẩy việc in tiền để bổ sung thâm hụt thuế.

Bài học đầu tiên và quan trọng nhất là lịch sử đã cho chúng ta biết những gì chính sách tiền tệ có thể làm – một bài học quan trọng và to lớn nhất – rằng chính sách tiền tệ có thể ngăn tiền không trở thành một nguồn cơn chính của biến động kinh tế. Điều này  có vẻ là một mục tiêu hơi bi quan: tránh những lỗi sai lớn. Phần nào, thực tế chính là như vậy. Cuộc Đại khủng hoảng có thể sẽ không xảy ra, và nếu xảy ra, người ta có thể bảo vệ phần nào, nếu cơ quan tiền tệ tránh được những lỗi sai, hoặc nếu những thiết chế tiền tệ là những thiết chế của một giai đoạn trước khi không có cơ quan tiền tệ nào có sức mạnh để tạo ra những lỗi sai kiểu này như Hệ thống Cục Dự trữ Liên bang đã làm. Một vài năm qua, nói một cách trần trụi, hoạt động kinh tế đáng ra phải ổn định hơn, hiệu quả hơn nếu Cục Dự trữ Liên bang tránh được những thay đổi quyết liệt và thất thường của cách làm này, đầu tiên là mở rộng cung tiền với tốc độ nhanh hợp lý, rồi, vào đầu năm 1966, đạp ga mạnh hơn, tiếp đó, cuối năm 1966, quay ngược lại và tiếp tục bành trướng cho đến tháng 11 năm 1967, tại một điểm với tốc độ cao hơn có thể duy trì lâu dài mà không có lạm phát đáng kể.

Thậm chí nếu quan điểm rằng chính sách tiền tệ có thể ngăn tiền trở thành nguồn cơn chính của biến động kinh tế là một quan điểm bi quan, nhưng cũng không vì thế mà nó kém quan trọng. Tuy nhiên, như những gì đã diễn ra, đây không hoàn toàn là một quan điểm bi quan. Cỗ máy tiền tệ đã vượt ra khỏi khuôn khổ thậm chí khi không có bất kỳ cơ quan tiền tệ nào có thứ sức mạnh như Cục Dự trữ Liên bang hiện đang nắm giữ. Ở Mỹ, trong giai đoạn 1907 và trước đó, nỗi kinh hoàng với các ngân hàng là những ví dụ của việc cỗ máy tiền tệ đã có thể vượt ra khỏi khuôn khổ của chính nó mạnh mẽ như thế nào. Do đó, một nhiệm vụ quan trọng và sáng sủa hơn cho cơ quan tiền tệ là đưa ra những cải tiến cho chiếc máy này để giúp giảm thiểu những khả năng để nó có thể vượt ra khỏi khuôn khổ, và để sử dụng sức mạnh của nó để giữ chiếc mày này trong một khuôn khổ được điều phối tốt.

Điều thứ hai mà chính sách tiền tệ có thể thực hiện đó là cung cấp một nền tảng ổn định cho nền kinh tế – giữ cho chiếc máy được tra dầu liên tục, để tiếp tục phép loại suy của Mill. Thực hiện được nhiệm vụ đầu tiên này sẽ đóng góp cho mục tiêu này, và còn hơn thế nữa. Hệ thống kinh tế của chúng ta sẽ hoạt động tốt nhất khi nhà sản xuất và người tiêu dùng, chủ lao động và người lao động, có thể hành động với đầy đủ tự tin rằng mức giá trung bình sẽ biến động theo như dự báo trong tương lai – tốt hơn hết là sẽ ổn định ở mức tương đối cao. Trong bất kỳ thiết kế thể chế khả dĩ nào, và chắc chắn trong những thể chế đang thịnh hành tại Mỹ, giá và lương chỉ linh hoạt phần nào. Chúng ta cần duy trì tính linh hoạt này để đạt được những thay đổi tương đối trong giá và lương mà chúng ta cần để điều chỉnh với những thay đổi linh động của thị hiếu và công nghệ. Chúng ta không nên phung phí nó chỉ đơn giản là để đạt được những thay đổi hoàn toàn trong mức giá mà không phục vụ những chức năng kinh tế. Ở một thời kỳ trước đó, người ta dựa vào chuẩn bản vị vàng để tạo ra niềm tin vào sự ổn định của tiền tệ trong tương lai. Trong thời kỳ hoàng kim, chuẩn này đã phục vụ chức năng ổn định khá tốt. Nhưng rõ ràng là không lâu sau, do khan hiếm mà một quốc gia trên thế giới đã sẵn sàng buông lỏng sự thống trị của chế độ bản vị vàng – và có những lý do thích hợp để các quốc gia không nên làm vậy. Cơ quan tiền tệ có thể hoạt động như một người đại diện cho chuẩn bản vị vàng, nếu nó neo tỷ giá và độc quyền làm việc đó bằng cách thay đổi lượng tiền để phản ứng lại cán cân thanh toán mà không “khử trùng” thặng dư hoặc thâm hụt và không dùng đến điều khiển tỷ giá mở hoặc đóng hoặc những thay đổi trong hạn ngạch và hàng rào thuế. Nhưng một lần nữa, mặc dù nhiều ngân hàng trung ương nói như vậy, nhưng một số trong thực tế vẫn sẵn sàng theo hướng này – và lại có những nguyên nhân hợp lý về việc tại sao họ không nên làm thế. Một chính sách như thế sẽ phù hợp với mỗi quốc gia để những điều bất thường không phải của chuẩn bản vị vàng tự động và khách quan mà là của các chính sách – thông thường hoặc ngẫu nhiên – của những cơ quan tiền tệ khác.

Trong thế giới ngày nay, nếu việc thực thi chính sách tiền tệ là nhằm cung cấp một nền tảng ổn định cho nền kinh tế, thì chính sách này phải làm như vậy bằng cách thường xuyên sử dụng triệt để sức mạnh của mình. Tôi sẽ nói về cách thức để nó có thể thực hiện sau đây.

Cuối cùng, chính sách tiền tệ có thể tham gia bù đắp những biến động lớn trong hệ thống kinh tế gây ra bởi những nguyên nhân khác. Nếu có một niềm vui độc lập muôn thưở – như sự bành trướng thời hậu thế chiến được miêu tả bởi những đề xuất lạm phát đình đốn muôn thưở – chính sách tiền tệ về cơ bản có thể tự kiểm soát bởi một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ chậm hơn là có thể mong đợi. Nếu, như bây giờ, ngân sách liên bang bành trướng đe dọa thâm hụt ngân sách không được dự báo, chính sách tiền tệ có thể kiểm soát bất kỳ nguy hiểm nào đối với lạm phát bằng một mức tăng trưởng tiền tệ thấp hơn mức kỳ vọng. Điều này sẽ tạm thời khiến lãi suất cao hơn mức bình thường – cho phép chính phủ mượn tổng tiền cần thiết để tài trợ thâm hụt – nhưng bằng cách ngăn gia tăng lạm phát, có thể khiến cả giá và lãi suất danh nghĩa thấp trong thời gian dài. Nếu chiến tranh kết thúc cho đất nước một cơ hội để chuyển những nguồn lực dành cho chiến tranh sang sản xuất cho thời bình, chính sách tiền tệ có thể nới lỏng sự chuyển dịch này bằng một mức tăng trưởng tiền tệ cao hơn mức kỳ vong – mặc dù kinh nghiệm không quá khuyến khích nó có thể làm như vậy mà không gây ra hậu quả.

Tôi đã đặt điểm này vào cuối bài, và đề cập đến nó trong những điều kiện thích hợp – như liên hệ đến những biến động lớn – bởi tôi tin rằng tiềm năng của chính sách tiền tệ trong việc bù đắp những nguyên nhân bất ổn khác bị giới hạn khá nhiều so với những gì mọi người tin tưởng. Chúng ta đơn giản là không có đủ kiến thức để có thể nhận ra những biến động nhỏ khi chúng xảy ra hoặc có thể tiên đoán liệu những ảnh hưởng của chúng sẽ xảy ra chính xác hay không, hay chính sách tiền tệ cần phải bù đắp những gì cho những ảnh hưởng của chúng. Chúng ta không có đủ kiến thức để có thể đạt được những mục tiêu đã đề cập bằng những thay đổi trong việc kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa một cách tinh tế, hay thậm chí là thô thiển. Đặc biệt trong phạm vi này mục tiêu xuất sắc rất có thể là kẻ thù của sự đúng đắn. Kinh nghiệm cho thấy rằng con đường khôn ngoan là sử dụng chính sách tiền tệ một cách khéo léo để bù đắp những biến động khác chỉ khi chúng tạo ra một “mối nguy hiện tồn và rõ ràng.”

3. Chính sách tiền tệ nên được sử dụng như thế nào?

Chính sách tiền tệ nên được sử dụng thế nào để đóng góp trong phạm vi khả năng của nó cho những mục tiêu của chúng ta? Đây chắc chắn không phải là dịp để trình bày một  “Kế hoạch Ổn định Tiền tệ” chi tiết – sử dụng tiêu đề của một cuốn sách mà tôi đang cố gắng làm như thế [3]. Tôi sẽ tự ngăn bản thân mình trong hai yêu cầu lớn với chính sách tiền tệ đã theo sát từ thảo luận bên trên.

Yêu cầu đầu tiên là cơ quan tiền tệ nên tự biết rằng họ có thể kiểm soát cái gì và không thể kiểm soát cái gì. Nếu, như những cơ quan vẫn thường làm, lấy lãi suất hoặc tỷ lệ thất nghiệp hiện tại làm tiêu chuẩn tức thời của chính sách, nó sẽ giống như một cỗ máy không gian phụ trách một lỗi trên một ngôi sao gặp trục trặc. Dù cho dụng cụ hướng dẫn của nó tinh vi và mạnh đến đâu chăng nữa, cỗ máy vẫn sẽ đi chệch hướng. Và cơ quan tiền tệ cũng sẽ như vậy. Với những việc quan trọng khác mà nó có thể kiểm soát, những hướng dẫn thu hút nhất với chính sách là tỷ giá hối đoái, mức giá được xác định vởi một vài chỉ số, và tổng lượng tiền – tiền cộng thêm những khoản đặt cọc điều chỉnh theo cầu, hoặc tổng này cộng thêm các khoản đặt cọc kỳ hạn của ngân hàng thương mại, hoặc một tổng rộng hơn.

Đặc biệt với nước Mỹ, tỷ giá hối đoái là một chỉ dẫn không đáng mong đợi. Có thể sẽ tốt khi yêu cầu toàn bộ nền kinh tế điều chỉnh một lượng nhỏ bao gồm ngoại thương nếu điều này đảm bảo nền kinh tế được tách biệt khỏi sự vô trách nhiệm của tiền tệ – như khi áp dụng một chuẩn bản vị vàng thực tế. Nhưng gần như không đáng để nền kinh tế hành động như vậy chỉ đơn giản là để thích ứng với mức trung bình của bất cứ cái gì mà các chính sách của cơ quan tiền tệ thuộc phần còn lại của thế giới chấp nhận. Tốt hơn là để cho thị trường, bằng tỷ giá hối đoái thả nổi, điều chỉnh các điều kiện của thế giới vào khoảng 5% hoặc là với nguồn lực của chúng ta dành cho thương mại quốc tế trong khi bảo toàn chính sách tiền tệ để thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả 95% còn lại.

Trong ba chỉ dẫn trên, mức giá rõ ràng là quan trọng nhất bởi những ảnh hưởng của nó. Những chỉ dẫn khác tương tự, có thể là lựa chọn tốt nhất – như nhiều nhà kinh tế cao cấp đã thuyết phục trong quá khứ. Nhưng những chỉ dẫn khác thực tế lại không giống như thế. Mối liên hệ giữa hành động chính sách của cơ quan tiền tệ và mức giá, trong khi thực tế rõ ràng, kém trực diện hơn mối liên hệ giữa hành động chính sách của cơ quan tiền tệ và bất kỳ tổng lượng tiền tệ nào. Hơn nữa, hành vi tiền tệ cần mất nhiều thời gian để tác động lên mức giá hơn là tác động lên tổng cung tiền và cả thời gian chờ và tầm quan trọng của tác động đa dạng với nhiều trường hợp. Kết quả là, chúng ta không thể nào tiên đoán chính xác rằng một hành động tiền tệ đặc thù sẽ có những tác động nào lên mức giá và, cũng quan trọng không kém, là khi nào ảnh hưởng đó diễn ra. Nỗ lực để kiểm soát trực tiếp mức giá do đó có thể khiến bản thân chính sách tiền tệ là nguồn cơn của biến động kinh tế bởi những quãng dừng và khởi đầu sai lầm. Có lẽ, như hiểu biết của chúng ta về những tiến bộ của hiện tượng tiền tệ, tình huống này sẽ thay đổi. Nhưng ở chặng hiện tại của hiểu biết của chúng ta, cách dài hạn xung quanh dường như là cách chắc chắn hơn với mục tiêu của chúng ta. Theo đó, tôi tin rằng tổng lượng tiền là cách tốt nhất hiện tại phù hợp với chỉ dẫn hay tiêu chuẩn tức khắc cho chính sách tiền tệ – và tôi tin rằng

Yêu cầu thứ hai của chính sách tiền tệ là cơ quan tiền tệ tránh những cánh rõ ràng trong chính sách. Trong quá khứ, các cơ quan tiền tệ thường đi sai hướng – như trong giai đoạn Đại Khủng hoảng mà tôi đã nhấn mạnh. Thường xuyên hơn, họ đi đúng hướng, mặc dù là thường quá muộn, nhưng đã để sai lầm đi quá xa. Quá muộn và quá nhiều chính là kinh nghiệm đã trải qua. Ví dụ, vào đầu năm 1966, là thời điểm cục dự trữ liên bang cần đưa ra chính sách hợp lý để hành động nhằm giàm thiểu sự bành trướng – mặc dù, điều này nên được làm ít nhất là một năm trước. Nhưng khi được triển khai, nó đã đi quá xa, gây ra những thay đổi rõ rệt nhất về mức tăng trưởng tiền tệ của thời kỳ hậu chiến tranh. Một lần nữa, cũng đi quá xa, đó là chính sách của Fed nhằm đảo chiều diễn biến vào cuối năm 1966. Nhưng một lần nữa, nó lại đi quá xa, không chỉ làm phục hồi mà còn vượt quá mức vượt trước đó của tăng trưởng tiền tệ. Và giai đoạn này không phải là ngoại lệ. Nó thường xuyên diễn ra như vậy vào những năm 1919 và 1920, 1937 và 1938, 1953 và 1954, 1959 và 1960.

Nguyên nhân cho thiên hướng phản ứng quá mức này dường như rất rõ ràng: sự thất bại của các cơ quan tiền tệ trong việc cho phép trì hoãn giữa hành động của họ và những ảnh hưởng sau đó đến nền kinh tế. Họ luôn xác định những hành động của mình dựa trên những điều kiện hiện tại – nhưng những hành động của họ sẽ tác động đến nền kinh tế sau sáu hoặc chín hoặc mười hai thậm chí mười hai tháng sau đó. Bởi vậy, họ cảm thấy cần phải đạp ga, hoặc đạp phanh, cực mạnh, như tình thế lúc đó yêu cầu.

Quan điểm cá nhân của tôi vẫn là cơ quan tiền tệ phải hết sức tránh những phương pháp như vậy bằng cách thực hiện một cách công khai những chính sách này để đạt một trạng thái tăng trưởng tổng mức tiền tệ quy định ổn định. Tỷ lệ tăng trưởng chuẩn xác, hay tổng tiền chuẩn xác, không quan trọng bằng việc áp dụng một vài tỷ lệ cho sẵn và biết trước. Tôi ủng một tỷ lệ sẽ là mức trung bình để cơ bản đạt được ổn định mức giá của sản phẩm cuối cùng, mà tôi đã ước lượng sẽ yêu cầu một số thứ như một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ 3 đến 5% một năm cộng thêm tất cả các khoản đặt cọc của các ngân hàng thương mại hoặc một tỷ lệ tăng trưởng tương đối thấp của tiền và chỉ cộng thêm các khoản đặt cọc phía cầu. Nhưng sẽ tốt hơn nếu có một mức cố định có thể là mức trung bình của lạm phát hoặc giảm phát, để tạo sự ổn định, hơn là chịu những biến động lớn và thất thường mà chúng ta đã trải qua.

Vì không áp dụng một chính sách về tốc độ tăng trưởng tiền tệ ổn định công khai như vậy, nên sẽ là một bước tiến lớn nếu cơ quan tiền tệ tuân thủ quy định tự phủ nhận để tránh những thay đổi lớn. Đây chỉ là vấn đề mang tính thống kê khi những giai đoạn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ tương đối ổn định cũng là các giai đoạn hoạt động kinh tế tương đối ổn định ở cả Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Khoảng thời gian tốc độ tăng trưởng tiền tệ dao động mạnh cũng là giai đoạn hoạt động kinh tế dao động mạnh.

Bằng cách tự thiết lập một khung khổ ổn định và duy trì nó, cơ quan tiền tệ có thể tạo ra một đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy ổn định kinh tế. Khi thực hiện khung khổ đó tốc độ tăng trưởng lượng tiền ổn định nhưng không ôn hòa sẽ tạo ra một tác động lớn để tránh được lạm phát hay giảm phát giá cả. Những lực lượng khác sẽ tiếp tục tác động đến nền kinh tế, yêu cầu phải có sự thay đổi và điều chỉnh, và làm xáo trộn đường hướng đúng đắn của chúng ta. Nhưng tăng trưởng tiền tệ ổn định sẽ tạo ra một bầu không khí tiền tệ dễ chịu với hoạt động điều hành hiệu quả của những những thành tố cơ bản như kinh doanh, tài khéo, phát minh, làm việc chăm chỉ, và tiết kiệm sẽ là tạo cho nền kinh tế những cơ hội tăng trưởng vượt bậc. Đó là điều tôi khao khát mong chờ nhất từ chính sách tiền tệ trong khả năng tri thức hiện tại của thời đại chúng ta. Nhưng nhìn chung – và đây là một thương vụ lớn – rõ ràng là nó trong tầm với của chúng ta.

 

 

 

 

 

 

KHOA KINH TẾ VÀ CHI HỘI DU LỊCH LỮ HÀNH TỔ CHỨC TỌA ĐÀM VÀ KÍ KẾT THỎA THUẬN HỢP TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH

Nhằm mang lại thông tin hữu ích cho sinh viên về định hướng nghề nghiệp trong lĩnh vực du lịch (hướng dẫn viên, điều hành du lịch, kinh doanh, kế toán…) đáp ứng nhu cầu xã hội, tạo cơ hội việc làm, từ đó giúp sinh viên chuẩn bị hành trang cũng như kĩ năng làm việc cần thiết, đồng thời, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch; Góp phần nâng cao kết quả học tập và chất lượng đào tạo; giúp sinh viên tự phát triển bản thân, ngày 23/01/2019 tại phòng họp 2 – Trường Đại học Tây Bắc, Khoa Kinh tế và các doanh nghiệp thuộc Chi hội du lịch lữ hành – Hiệp hội du lịch tỉnh Sơn La đã tổ chức buổi Tọa đàm và kí kết thỏa thuận hợp tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch.

Buổi tọa đàm và kí kết với sự có mặt của lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo các phòng ban, các thầy cô giáo khoa Kinh tế, lãnh đạo Hiệp hội du lịch tỉnh Sơn La, 8 doanh nghiệp thuộc Chi hội du lịch lữ hành – Hiệp hội du lịch tỉnh Sơn La và 45 bạn sinh viên đại diện cho các chuyên ngành Kế toán, Quản trị kinh doanh và Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành của khoa Kinh tế – trường Đại học Tây Bắc.

Tại buổi tọa đàm, ông Hoàng Chí Thức – Chủ tịch Hiệp hội du lịch và doanh nghiệp tỉnh Sơn La đã chia sẻ về thực trạng, tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Sơn La và cơ hội việc làm trong lĩnh vực này hiện nay là rất nhiều. Lần lượt đại diện các doanh nghiệp tham dự cũng đã chia sẻ về quá trình hình thành và phát triển của đơn vị mình cũng như nhu cầu tuyển dụng hiện tại và trong tương lai. Bên cạnh đó,  các doanh nghiệp cũng đã giải đáp những băn khoăn, lo lắng của một số bạn sinh viên. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên các doanh nghiệp chưa thể giải đáp được hết tất cả các câu hỏi của các bạn sinh viên. Mặc dù vậy, việc chia sẻ nhiệt tình, sự cởi mở của các doanh nghiệp đã giúp các bạn sinh viên định hình được phần nào các công việc và mở ra rất nhiều cơ hội cho các bạn sinh viên không chỉ chuyên ngành kinh tế và du lịch mà còn cả các bạn sinh viên ở các chuyên ngành khác như Tiểu học – Mầm non, Sử – địa….. nếu như các bạn có nhu cầu, sự đam mê, nhiệt huyết và thái độ làm việc nghiêm túc

Buổi tọa đàm và kí kết thỏa thuận hợp tác đã thành công trên cả mong đợi với việc 8/8 doanh nghiệp đồng ý và cam kết thỏa thuận hợp tác với khoa Kinh tế – Trường Đại học Tây Bắc về đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch. Cụ thể là các doanh nghiệp đều đồng ý nhận các sinh viên đến trải nghiệm, rèn nghề và thực tập cuối khóa, đó là những cơ hội rất tốt cho các bạn sinh viên được học từ thực tế.

Dưới đây là một số hình ảnh của buổi Tọa đàm và kí kết thỏa thuận hợp tác.

Nguyễn Thị Thanh Thủy

 

 

 

 

DIỄN BIẾN NỢ XẤU TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2018

Lắt Tỵ Ca Sổm Sắc, Xêng Xông Sư Nụ; Xua Mua No Tụ; Pa Ni Đa Vỵ La Phông Sả

Sinh viên Lào K58 Quản trị kinh doanh

(GVHD: NCS. Đỗ Thị Thu Hiền)

Tóm tắt: Vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam năm 2018 đang có chuyển biến tích cực sau Nghị quyết 42/2017/QH14. Nợ xấu tại các NHTM giảm xuống 0,-5%/tổng dư nợ, giảm 3-5% so với năm 2017; dẫn đến lợi nhuận NHTM tăng trưởng nhanh chóng (trung bình tăng trên 150% tổng lợi nhuận năm 2017). Bên cạnh thành công đó, còn có những hạn chế, tồn tại cần có sự phối hợp, vào cuộc đồng bộ của các cơ quan quản lý triển khai nhiều giải pháp thiết thực nhằm cụ thể phương pháp phân loại nợ xấu, quản lý và mua bán nợ trên thị trường tài chính – tiền tệ Việt Nam. Là những yêu cầu cấp thiết đặt ra trong bối cảnh triển khai xử lý nợ xấu hiện nay cần giải quyết.

Từ khóa: Nợ xấu; Ngân hàng thương mại Việt Nam.

  1. Đặt vấn đề

Nhìn lại ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011 – 2017 đã có lúc ngành ngân hàng dường như lúng túng trước khối nợ xấu khổng lồ ước hàng trăm ngàn tỷ đồng. Công ty mua bán nợ xấu quốc gia (VAMC) mới được lập ra cũng chưa có cơ chế và vận động tương thích “ngay và luôn” để nhập cuộc mua-bán/xử lý nợ xấu, hỗ trợ các nhà băng làm sạch bảng cân đối tài sản. Tính đến cuối năm 2017, VAMC đã góp phần tạo ra những con số tích cực về tăng trưởng tín dụng toàn ngành đạt khoảng 18,17%, tăng trưởng huy động vốn 14,5%, tăng trưởng dư nợ 16,96%, xử lý nợ được hơn 70.000 tỷ đồng, giữ cho đồng nội tệ ngày càng ổn định hơn và tạp chí Tài chính Hoa Kỳ Bloomberg Market bình chọn tiền tệ VNĐ là một trong 3 đồng tiền ổn định nhất ở châu Á trong năm 2018, dự trữ ngoại tệ quốc gia hơn 54 tỷ USD về trước mục tiêu 2020, tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành đạt hơn 44%, và có xu hướng tăng trưởng lành mạnh và bền vững hơn.

  1. Nội dung

2.1. Thực trạng về Nợ xấu trong ngân hàng thương mại Việt Nam

Sau khi có Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, những khó khăn trong công tác xử lý nợ xấu trước đây đã dần được tháo gỡ, nhờ đó quá trình xử lý nợ xấu đã đạt được những kết quả tích cực:

Đến cuối tháng 3/2018, tổng nợ xấu nội bảng (chưa kể đến các nghiệp vụ tín dụng ngoại bảng) của hệ thống tổ chức tín dụng chiếm 2,18% tổng dư nợ. Tính luỹ kế từ 15/8/2018 đến cuối tháng 3/2018, toàn hệ thống đã xử lú được 100,5 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42.

Tại Hội nghị sơ kết 1 năm triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Quyết định số 1058/QĐ-TTg tại NHNN Việt Nam cho biết: tính đến 30/6/2018, vốn điều lệ của toàn hệ thống ước đạt 519,01 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% so với cuối năm 2017, tăng 6,3% so với cuối năm 2016. Vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống ước đạt 720,43 nghìn tỷ đồng, tăng 9,1% so với cuối năm 2017, tăng 21,1% so với cuối năm 2016.

Về kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, NHNN cho biết, đến 30/6/2018, hệ thống TCTD đã xử lý được 138,29 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 (không bao gồm 61,04 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng). Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 70,23 nghìn tỷ đồng (chiếm 50,78%), xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 là 21,59 nghìn tỷ đồng (chiếm 15,61%) và xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 46,46 nghìn tỷ đồng (chiếm 33,59%).

Trong khi đó, chất lượng tín dụng cũng được cải thiện. Các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các TCTD.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 42 bước đầu đã tạo điều kiện quan trọng góp phần xử lý nợ xấu tại các TCTD, đến cuối tháng 6/2018 tỷ lệ nợ xấu so với so với tổng nợ là 2,09%, giảm so với thời điểm 31/12/2016 (2,46%) được thống kê tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Theo các ngân hàng thương mại cũng có kết quả khả quan. Tỷ lệ nợ xấu các NHTM dao động từ 0,89% đến 4,07% trên tổng dư nợ.

Bảng 1: Tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại điển hình quý II/2018

STT Ngân hàng Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ
1 VIB 2,3%
2 ACB 0,98%
3 Sacombank 3,3%
4 VPBank 4,07%
5 BacAbank 0,98%
6 KienLongbank 0,98%
7 Vietcombank 11,3%
8 VietinBank 24,6%
9 BIDV 9,57%

Tại Sacombank, sau năm 2017 xử lý được hơn 15.000 tỷ đồng nợ xấu, nửa đầu năm 2018 tiếp tục thu hồi được hơn 3.600 tỷ đồng nợ xấu và tài sản tồn đọng; nợ xấu cuối năm 2017 là 4,28%, hiện đã giảm xuống còn 3,3% và dự kiến sẽ giảm xuống dưới 3% vào cuối năm 2018

Bên cạnh đó, tại VPbank, tổng lượng nợ xấu đã bán cho VAMC những năm qua vào khoảng 7.000 tỷ đồng, nhưng hiện số dư chỉ còn khoảng 4.000 tỷ đồng. VPbank là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cho vay khách hàng cao nhất 4,07%

Ngân hàng Bắc Á, ACB, KienLongbank vẫn tiếp tục nằm ở top đầu các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất hệ thống. Với việc giảm nợ xấu từ 1,07% cuối quý I/2018 xuống 0,98% LienVietPostbank cũng góp mặt vào nhóm tỷ lệ nợ xấu thấp.

Trong 3 ngân hàng lớn gồm: Vietcombank, Vietinbank và BIDV thì Vietcombank có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất. BIDV có tỷ lệ nợ xấu cao nhất còn Vietinbank lại có tốc độ tăng nợ xấu cao nhất 24,6%.

Tính đến nay, ngoài Vietcombank và Techcombank, MBbank cũng đã góp mặt vào danh sách ngân hàng không có nợ xấu tại tổ chức mua bán nợ VAMC.

Trong năm 2018, VAMC lên kế hoạch mua khoảng từ 30.500 – 35.500 tỷ đồng nợ xấu. Dự kiến bao gồm từ 27.000 – 32.000 tỷ đồng giá trị mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt và 3.500 tỷ đồng mua nợ theo giá thị trường.

2.2. Nợ xấu giảm đồng nghĩa với lợi nhuận của ngân hàng tăng trưởng cao

Theo tổng cục thống kê cho biết trong Báo cáo về tình hình kinh tế – xã hội 6 tháng đầu năm 2018, tình đến thời điểm 20/6/2018, tổng phương tiện thanh toán toàn nghành ngân hàng tăng 7,96% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ năm trước tăng 5,89%).

Mặt bằng lãi suất được giữ ổn định, lãi suất cho vay phổ biến ở mức 6%-9%/năm đối với ngắn hạn (khách hàng có tình hình tài chính lãnh mạnh, mức tín nhiệm cao, lãi suất cho vay từ 4%-5%/năm); 9%-11%/năm đối với trung và dài hạn.

Nhiều ngân hàng đã thông báo về kết quả kinh doanh khả quan, lãi lớn trong 6 tháng đầu năm 2018, đạt trên 50% kế hoạch cả năm, điển hình như:

Lợi nhuận Vietcombank đạt mức cao, các tỷ suất sinh lời cải thiện. Cụ thể, lợi nhuận trước thuế đã đạt 7.722 tỷ đồng, tăng 52,7% so với cùng kỳ 2017, thực hiện 55,2% kế hoạch 2018. Các chỉ tiêu sinh lời được cải thiện như NIM đạt 2,76%; ROA đạt 1,24%; ROE đạt 22,71%, cao hơn mặt bằng chung của thị trường và tăng mạnh so với năm 2017.

Tốc độ tăng lợi nhuận đột biến tiếp tục thể hiện tại ở Ngân hàng quốc tế (VIB) sau 5 tháng đầu năm 2018 và đạt tới 918 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng gần 230% so với cùng kỳ năm trước đạt gần 50% kế hoạch lợi nhuận cho cả năm 2018.

2.3. Tồn tại, hạn chế

Mặc dù công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã đạt được kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi sự chung sức, nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là sự hỗ trợ, phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước, cụ thể:

Thứ nhất, Việc thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm (TSĐB) của các khoản nợ xấu còn hạn chế do chưa có thị trường mua bán nợ thật sự chuyên nghiệp dẫn đến việc mua bán nợ xấu chưa thật sự sôi động, các thương vụ lớn chưa phát sinh nhiều.

Thứ hai, Việc triển khai Nghị quyết 42 trong thực tiễn còn gặp nhiều bất cập, như việc thực hiện nội dung liên quan đến việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết số 42.

Thứ ba, Vấn đề liên quan đến thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ và nghĩa vụ nộp thuế có ảnh hưởng đến việc thực hiện thủ tục sang tên cho người mua; công tác giữ gìn, đảm bảo an ninh trật tự và hỗ trợ các TCTD trong việc thu giữ TSBĐ của các khoản nợ xấu; vấn đề xử lý TSBĐ là dự án bất động sản còn dở dang; trường hợp đăng ký giao dịch bảo đảm thiếu chữ ký của bên thế chấp; quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm cho các khoản nợ mà các cá nhân, tổ chức mua lại từ VAMC…

Thứ tư, Cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSBĐ chưa đáp ứng yêu cầu của các TCTD nên các TCTD gặp khó khăn trong việc xác định TSĐB nào đang tranh chấp, TSĐB nào đang phải áp dụng biện pháp khẩn cấp, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý TSĐB theo Nghị quyết 42.

Thứ năm, Tranh chấp về TSĐB, trường hợp khách hàng cố tình chống đối, không bàn giao TSĐB buộc các tổ chức tín dụng phải khởi kiện ra tòa. Hay trường hợp khách hàng thế chấp TSĐB là tài sản hình thành trong tương lai…

2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trên

Nguyên nhân từ phía DN

Thứ nhất, sự làm ăn thua lỗ của các DN, nhất là DNNN. Có đến 70% nợ xấu ngân hàng là nợ của các DNNN do đây là nhóm có nhiều thuận lợi trong tiếp cận tín dụng và chiếm thị phần lớn trong tổng dư nợ tín dụng của toàn thể nền kinh tế. Phần nợ xấu lớn thứ hai (sau DNNN) là xuất phát từ một số DN tư nhân lớn, trong đó tập trung chủ yếu là các khoản vay đầu tư bất động sản (BĐS), chứng khoán, đầu tư ngoài ngành…

Hầu hết các DN, nhất là DNNN đều có chi phí vốn vay lớn, dẫn đến mất cân bằng về tài chính. Nhiều đơn vị tổng lãi vay phải trả lớn gấp nhiều lần quỹ tiền lương, tỷ lệ sinh lời của tài sản nhỏ hơn lãi suất vay, hiệu quả kinh doanh thấp, tài chính kém lành mạnh, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh hạn chế, trong khi phải đối diện với những khó khăn lớn của kinh tế trong, ngoài nước đó là sức mua kém, tồn kho lớn, doanh thu giảm sút, DN không có nguồn để trả nợ cả gốc và lãi. Các khoản vay ngân hàng vì thế mà trở thành nợ xấu là lẽ đương nhiên.

Thứ hai, nhiều công ty dùng nợ ngắn hạn đầu tư dài hạn. Khi đang gặp khó khăn về vốn, việc DN lấy vay ngắn hạn cho đầu tư dài hạn là khá phổ biến. Việc sử dụng vốn sai nguyên tắc (dùng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn) là con đường ngắn nhất dẫn tới nợ quá hạn, nợ xấu cho DN và hệ thống ngân hàng.

Ba là, nhiều công ty dùng vốn vay đầu tư ra ngoài ngành, đặc biệt vào BĐS. Theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, tổng dư nợ cho vay BĐS chiếm khoảng 15% tổng dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế (năm 2013-2017). Tỉ lệ này là rất cao so với một số nước trong khu vực như Thái Lan 6%, Malaysia 7%… Điều này dễ dẫn đến khi thị trường BĐS đóng băng, suy giảm thì ngay lập tức sẽ kéo các NHTM rơi vào khủng hoảng nợ xấu và ảnh hưởng đến sức khoẻ của toàn bộ hệ thống tài chính Việt Nam.

Nguyên nhân từ các NHTM

Một là, tiêu thức phân loại nợ chưa phản ánh đúng số nợ xấu. Hiện nay chưa có quy định rõ ràng và mang tính pháp lý buộc các tổ chức tín dụng phân loại nợ theo mức độ rủi ro của từng khách hàng. Điều này dẫn tới một kết quả là cùng một khoản nợ có thể phân vào các loại khác nhau. Nó lý giải vì sao số liệu thống kê về nợ xấu không thống nhất giữa các cơ quan quản lý tài chính (NHNN, các NHTM, Quý tiền tệ quốc tế IMF, Uỷ ban giám sát tài chính quôc sgia NFSC). Hậu quả là một số tổ chức tín dụng lợi dụng để điều chỉnh nhóm nợ để trích ít dự phòng nhằm tăng lợi nhuận, theo kiểu “giấu nợ, khoe lãi”.

Hai là, vướng mắc trong cơ chế xử lý tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo thường là BĐS. Khi DN mất khả năng thanh toán, ngân hàng được phép đứng ra bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ, nhưng theo quy định hiện hành thì không thể sang tên BĐS được nếu chủ tài sản không đồng ý. Nếu mang ra tòa thì thời gian xử lý rất dài, mất nhiều năm, thủ tục rườm rà, phức tạp, qua nhiều khâu, nhiều cấp, quá trình bàn giao tài sản chậm… làm cho tài sản hư hỏng, giảm giá trị BĐS, giá trị thu hồi nhỏ hơn dự kiến ban đầu.

Đấy là chưa tính tới trong lĩnh vực BĐS, ngân hàng cho vay 60% giá trị dự án, nhưng ngay từ khi xác định giá trị tài sản lại nâng cao hơn giá trị thực của nó “giá trị ảo của tài sản”, do vậy mặc dù thanh lý toàn bộ tài sản đảm bảo cũng không thu hồi được nợ, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả thu hồi thông nợ qua tài sản đảm bảo.

Ba là, về phía bản thân các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại. Một bộ phận lớn vốn tín dụng sử dụng để đầu tư vào những lĩnh vực được coi là có mức độ mạo hiểm cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro như BĐS, chứng khoán do sự ”mở cửa” của các NHTM. Trong một thời gian dài, các TCTD đều theo đuổi chiến lược đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, trong khi năng lực quản trị rủi ro  hạn chế, chậm cải thiện, không theo kịp nhịp độ phát triển, không kiểm soát được chất lượng tín dụng. Do năng lực cán bộ yếu nên công tác kiểm tra, giám sát đạt hiệu quả thấp, không phát hiện ra các sai sót, các vi phạm nên không có biện pháp xử lý kịp thời, dẫn tới nhiều vụ việc sau một thời gian dài, mức độ trầm trọng mới được phát hiện.

Còn tồn tại hành vi đảo nợ, che dấu nợ bằng cách hạch toán nợ và tài khoản phải thu, ủy thác đầu tư… Do tính minh bạch còn hạn chế, số nợ xấu công bố qua báo cáo của TCTD không đúng thực chất, làm cho số lũy kế nợ xấu thực tăng theo thời gian, việc xử lý ngày càng khó khăn.

2.5. Giải pháp xử lý nợ xấu

Xử lý nợ xấu trước hết là của các TCTD, Nhà nước chỉ can thiệp khi các TCTD không thể tự xử lý được. Và dù áp dụng bằng hình thức nào (như thu nợ trực tiếp từ khách nợ, bán lại nợ, cơ cấu lại nợ…) cũng phải tôn trọng nguyên tắc thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh tế cho các bên tham gia, đồng thời nhằm khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho các DN, vì đây là khách hàng của TCTD, bởi vì các TCTD chỉ phát triển, ổn định và có hiệu quả khi các khách hàng của mình hoạt động có lãi.

Nhưng xử lý nợ xấu không có nghĩa là cứu cả các TCTD yếu kém, mà đây là một cơ hội loại bỏ các TCTD và ngân hàng yếu kém (giải thể, phá sản, sáp nhập…). Chỉ những TCTD nào có đủ năng lực mới được tồn tại và phát triển. Điều đó có nghĩa là trong giai đoạn hiện nay, xử lý nợ xấu có thể coi là công cụ để tái cơ cấu lại các TCTD, đồng thời ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ hệ thống, ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế.

Nhóm giải pháp về phía các TCTD

Các TCTD phải tự nỗ lực xử lý khiếm khuyết của mình. Thông qua các biện pháp đã và đang làm như: bán nợ, đòi trực tiếp, thanh lý tài sản thế chấp, sử dụng quỹ dự phòng bù đắp các khoản nợ không thu hồi được, hoặc chuyển nợ thành vốn góp nếu thấy khánh nợ có tương lai phát triển. Các tổ chức này đi tìm, hoặc bị sáp nhập một cách cưỡng bức bởi một TCTD đủ mạnh. Nếu không sáp nhập được thì các TCTD này sẽ đặt trong điều kiện kiểm soát đặc biệt của NHNN, nhằm từng bước xử lý các tồn đọng để đi tới giải thể. Do quy mô tín dụng ngày một lớn, bản thân các TCTD phải có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động, giảm thiểu rủi ro hoạt động để ngăn ngừa nợ xấu xuất hiện trở lại, như ban hành đầy đủ quy trình cho vay, năng cao năng lực quản trị, điều hành, quản trị rủi ro.

Nhóm giải pháp về phía Ngân hàng Nhà nước

 NHNN phải có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về quy mô và cơ cấu  của nợ xấu hiện nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp cụ thể cho từng TCTD. Xử lý nghiêm hành vi che dấu nợ xấu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung về cách phân loại nợ, trích lập sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong các trường hợp cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng sai chế độ. Đồng thời có cơ chế buộc các TCTD trong một thời gian phải đưa nợ xấu xuống một giới hạn nhất định.

Nhóm giải pháp về phía  VAMC

VAMC cần đẩy mạnh công tác mua nợ bằng Trái phiếu, phát hành trái phiếu để mua nợ thị trường theo quy định tại Nghị định số 53/2013/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) và Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 để tạo nguồn vốn triển khai hiệu quả mua nọ theo giá thị trường.

Cùng với đó, đẩy mạnh việc tìm kiếm, khai thác danh sách các khoản nợ đã mua bằng TPĐB, các khoản nợ đang hạch toán nội, ngoại bảng tại TCTD, triển khai làm việc với các TCTD và đối tác, lựa chọn các khoản nợ có tính khả thi trong việc xử lý sau khi mua, để có cơ sở đề xuất VAMC thực hiện mua khoản nợ theo giá thị trường.

VAMC cần tích cực triển khai bán đấu giá/chào giá cạnh tranh/bán thỏa thuận các khoản nợ và tài sản bảo đảm để thu hồi nợ; đồng thời VAMC phải bám sát quá trình khởi kiện/thi hành án đối với các khoản nợ đã ủy quyền cho TCTD thực hiện để xử lý các vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ thu hồi nợ. Phối hợp với các TCTD thống nhất áp dụng các biện pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý các khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu; Theo dõi đôn đốc các TCTD thu nợ, xử lý TSBĐ mà VAMC đã ủy quyền.

 Nhóm giải pháp về phía các DN

Nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý, bố trí vốn đúng nguyên tắc, sử dụng vốn có hiệu quả, ổn định lượng tiền mặt cần thiết cho cán cân thanh toán, cân đối hệ số vốn vay trên vốn chủ (D/E) không vươt quá trung bình của ngành, thường xuyên đánh giá thực trạng tài chính DN thông qua các tỷ số tài chính đặc trưng để đưa ra các kiến nghị cảnh báo về tình hình tài chính là giải pháp trước mắt cũng như lâu dài xử lý và ngăn ngừa nợ xấu.

  1. Kết luận

Tóm lại, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đề đạo đức nghệ nghiệp… đã làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều hướng ngày càng tăng. Cho dù nợ xấu đã có xu hướng giảm dần nhưng hiện tại vẫn đang tác động tiêu cực đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Chừng nào vẫn đề nợ xấu chưa được chưa xử lý triệt để và hiệu quả thực tế thì việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ không đạt hiệu quả.

 

 

 

 

 

GDP có thể khiến chúng ta bị ảnh hưởng trong việc đánh giá đúng bức tranh kinh tế?

Những gì chúng ta đo lường sẽ ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta. Nếu chỉ tập trung vào phúc lợi vật chất – ví dụ như sản xuất hàng hóa, thay vì sức khỏe, giáo dục và môi trường – chúng ta sẽ bị lạc hướng theo cách mà chỉ số này bị lạc hướng: Chúng ta sẽ quan trọng hóa vật chất hơn.

Chưa đến 10 năm trước, Ủy ban Đo lường Hiệu quả kinh tế và Tiến bộ xã hội Quốc tế đã đưa ra báo cáo Mismeasuring Our Lives: Why GDP Doesn’t Add Up (Tạm dịch: Đo lường sai lệch mức sống: Tại sao GDP không phải chỉ số hiệu quả). Tiêu đề tóm tắt: GDP không phải là một chỉ số tốt để đo lường phúc lợi. Những gì chúng ta đo lường ảnh hưởng hành vi của chúng ta. Và nếu chúng ta tính toán sai lệch, chúng ta sẽ có những hành vi sai lệch. Diễn đàn kinh tế thế giới – WEF, rất hài lòng với sự đón nhận dành cho báo cáo này. Báo cáo đã thúc đẩy một phong trào quốc tế giữa các học giả, xã hội và chính phủ trong việc xây dựng và sử dụng các chỉ số phản ánh đầy đủ về phúc lợi hơn. OECD đã xây dựng Better Life Index (Chỉ số Tiến bộ Đời sống), chứa một loạt các số liệu phản ánh tốt hơn những gì cấu thành phúc lợi.

Tại Diễn đàn của OECD về Thống kê, Kiến thức và Chính sách Thế giới lần thứ sáu tại Incheon, Hàn Quốc, nhóm chuyên gia cấp cao về Đo lường hiệu quả kinh tế và tiến bộ xã hội đã đưa ra báo cáo của mình, Beyond GDP: Measuring What Counts for Economic and Social Performance (tạm dịch: Rộng hơn GDP: Đo lường các nhân tố tính vào hiệu quả kinh tế và xã hội). Báo cáo mới làm rõ hơn một số chủ đề, như niềm tin và sự thiếu an toàn, vốn chỉ được đề cập ngắn gọn bởi Mismeasuring Our Lives, và khai thác sâu hơn một số chủ đề khác, như bất bình đẳng và phát triển bền vững. Tài liệu này cũng giải thích tại sao các chỉ số không toàn diện đã dẫn đến những thiếu sót trong chính sách ở các lĩnh vực khác nhau. Chỉ số bị lạc quan hóa đã gây ra những tác động tiêu cực, kéo dài quá trình suy thoái kinh tế 2008 đối với năng suất và phúc lợi.

Tình hình chính trị ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác trong những năm gần đây đã phản ánh tình trạng an ninh yếu kém, và vấn đề này hầu như không được phản ánh vào GDP. Một loạt các chính sách chỉ chú trọng GDP và thắt chặt tài khóa đã dẫn đến vấn nạn này. Cải cách lương hưu buộc các cá nhân phải chịu nhiều rủi ro hơn. Cải cách thị trường lao động – với mục đích thúc đẩy sự linh hoạt của người lao động thực ra đang làm suy yếu vị thế đàm phán của công nhân. Doanh nghiệp sẽ dễ dàng sa thải họ, và cắt giảm tiền lương. Các số chỉ số toàn diện hơn ít nhất sẽ cân nhắc các chi phí cơ hội này. Qua đó, buộc các nhà hoạch định chính sách phải tăng cường an ninh và công bằng.

Một nhóm nhỏ các quốc gia, đứng đầu là Scotland, đã thành lập Liên minh Phúc lợi Kinh tế (Wellbeing Economy Alliance), với hy vọng rằng các chính phủ sẽ coi phúc lợi là trọng tâm của chương trình nghị sự và từ đó chuyển hướng ngân sách của họ. Ví dụ, New Zealand tập trung vào phúc lợi, hướng sự chú ý và nguồn lực của họ nhiều hơn đến vấn đề nghèo đói ở trẻ em.Các chỉ số toàn diện hơn cũng sẽ trở thành công cụ chẩn đoán quan trọng, giúp các quốc gia xác định vấn đề trước khi chúng vượt khỏi tầm kiểm soát và chọn đúng công cụ để giải quyết chúng. Chẳng hạn, Mỹ đã tập trung nhiều hơn vào sức khỏe, thay vì chỉ dựa vào GDP, sự suy giảm tuổi thọ của người dân, đã xảy ra cách đây nhiều năm. Tương tự như vậy, các chỉ số bình đẳng về cơ hội tiếp cận nguồn lực đã cho thấy có một sự nhầm tưởng khi xem Mỹ là nơi có rất nhiều cơ hội để phát triển. Vâng, bất cứ ai cũng có cơ hội phát triển, miễn là họ có cha mẹ giàu, và da trắng.

Dữ liệu tiết lộ rằng Hoa Kỳ đang mắc kẹt với cái gọi là bẫy bất bình đẳng: Những người nghèo vẫn kẹt ở đó. Nếu chúng ta muốn loại bỏ những cái bẫy, trước tiên chúng ta phải biết rằng chúng tồn tại, và sau đó xác định những gì gây ra chúng. Cách đây hơn 25 năm, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã hoạt động với phương châm “Thúc đẩy con người”. Điều đó thật khó khăn, ngay cả trong một xã hội dân chủ. Doanh nghiệp và lợi ích nhóm luôn tìm cách để lợi ích của họ được ưu tiên hàng đầu. Việc cắt giảm thuế của Mỹ được ban hành bởi chính quyền Trump vào thời điểm cuối năm 2017 là một ví dụ. Những người bình thường – tầng lớp trung lưu suy yếu – phải chịu tăng thuế, hàng triệu người sẽ mất bảo hiểm y tế, để tài trợ việc cắt giảm thuế cho các tỷ phú và tập đoàn. Nếu chúng ta muốn ưu tiên dân chúng lên hàng đầu, chúng ta phải biết điều gì quan trọng với họ, điều gì cải thiện sức khỏe của họ và làm thế nào ta có thể giúp họ. Chương trình nghị sự về đo lường GDP sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp WEF đạt được những mục tiêu quan trọng này.

Theo Tri thức trẻ

VEPR: Thuế tài sản là một cú sốc về tiêu dùng

Đây là nhận định được đưa ra Tại hội thảo Công bố kết quả nghiên cứu “Khả năng áp dụng và tác động của Thuế tài sản tại Việt Nam” do Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) tổ chức ngày 12/12.

Mới đây, Bộ Tài chính đã đưa ra đề nghị xây dựng dự thảo Luật thuế tài sản, đánh thuế đối với đất ở và nhà. Với nhà ở, Bộ Tài chính xây dựng 2 phương án đánh thuế: Một là đối với nhà ở có giá trị từ 700 triệu đồng trở lên; hai là nhà ở có giá trị 1 tỷ đồng trở lên.

Ngưỡng không chịu thuế là nhà có giá trị 700 triệu đồng trở xuống hoặc 1 tỷ đồng trở xuống. Điều này có nghĩa, phần bị đánh thuế tài sản là phần có giá trị trên 700 triệu đồng hoặc trên 1 tỷ đồng. Bộ Tài chính giải thích cụ thể, với ngưỡng không chịu thuế là 700 triệu đồng thì một căn nhà có giá trị 800 triệu đồng sẽ bị đánh thuế với phần giá trị 100 triệu đồng, tức 0,3-0,4% của 100 triệu đồng. Còn đối với đất ở (bao gồm cả trường hợp sử dụng để kinh doanh; đất xây dựng nhà chung cư): áp dụng mức thuế suất là 0,3% trên toàn bộ giá trị đất.

Tại hội thảo, TS. Nguyễn Việt Cường, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, thành viên nhóm nghiên cứu đã đưa ra tham luận dự báo ảnh hưởng của Luật Thuế tài sản lên phúc lợi hộ gia đình. Tham luận này dựa trên số liệu “Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2016” do Tổng cục Thống kê điều tra với mẫu 9.399 hộ gia đình tại 6 vùng địa lý, bao gồm cả nông thôn và thành thị.

Đưa ra các kịch bản nghiên cứu thuế tài sản với các ngưỡng chịu thuế 700 triệu đồng, 1 tỷ đồng, 2 tỷ đồng; với thuế suất 0,3% và 0,4%, TS. Nguyễn Việt Cường đã chỉ ra, đối với ngưỡng 700 triệu đồng, nếu thuế suất 0,3% thì mức thuế mỗi hộ phải nộp là 978.000 đồng (bằng 0,66% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 638.000 đồng (bằng 0,27% tổng chi tiêu). Nếu thuế suất là 0,4% thì mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,3 triệu đồng (bằng 0,89% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 851.000 đồng (bằng 0,36% tổng chi tiêu). Đối với ngưỡng 1 tỷ đồng, nếu thuế suất là 0,3%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 897.000 đồng (bằng 0,61% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 600.000 đồng (bằng 0,25% tổng chi tiêu). Nếu thuế suất là 0,4%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,198 triệu đồng (bằng 0,82% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 800.000 đồng (bằng 0,34% tổng chi tiêu) Đối với ngưỡng 2 tỷ đồng, nếu thuế suất là 0,3%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 763.000 đồng (bằng 0,53% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 525.000 đồng (bằng 0,22% tổng chi tiêu). Nếu thuế suất là 0,4%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,019 triệu đồng (bằng 0,72% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 700.000 đồng (bằng 0,29% tổng chi tiêu).

“Phương án thuế suất 0,3% và ngưỡng chịu thuế 2 tỷ đồng đối với nhà ở là có tác động nhỏ nhất với hộ gia đình. Phương án thuế suất 0,4% và ngưỡng chịu thuế 1 tỷ đồng đối với nhà ở có tác động nhỏ hơn đến các hộ gia đình nhưng vẫn duy trì được doanh thu thuế cao”, TS. Cường nhận định. Theo ông Cường, thuế tài sản sẽ làm giảm thu nhập khả dụng (giảm 0,9%), chi tiêu thực tế (giảm 0,7%). Các hộ gia đình có chủ hộ là nữ, chủ hộ nhiều tuổi, chủ hộ có học vấn cao bị ảnh hưởng nhiều hơn các hộ có chủ hộ là nam giới, trẻ tuổi và học vấn thấp. Các hộ gia đình có nhiều người cao tuổi bị ảnh hưởng nhiều hơn. Các nhóm dân tộc Kinh, Tày, Mường chịu ảnh hưởng lớn hơn các nhóm dân tộc khác.

PGS. TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách cũng cho rằng, dự thảo Luật Thuế tài sản lần này được đưa ra trong bối cảnh hiện chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ về phân phối tài sản của xã hội, trong khi đây sẽ là hàm tham chiếu để tính mốc đánh thuế hợp lý nhất. Khi chưa có đầy đủ dữ liệu thì mức đánh thuế nhà trên 700 triệu đồng Bộ đưa ra là chưa hợp lý. Theo PGS. Nguyễn Đức Thành, thuế tài sản nếu được ban hành như dự thảo hiện nay sẽ làm giảm thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Tuy nhiên, nó không ảnh hưởng tới đói nghèo và chủ yếu làm giảm thu nhập của người giàu. Do đó, chỉ số bất bình đẳng được cải thiện, nhưng chủ yếu do người giàu bị nghèo đi chứ không phải do người nghèo được cải thiện cuộc sống.  “Đây không phải là sắc thuế bền vững, nếu chi tiêu công không thúc đẩy phúc lợi và năng suất toàn xã hội”, ông Thành nhấn mạnh.

PGS. Nguyễn Đức Thành cho rằng, muốn cải thiện thu, tạo được sự đồng thuận cao của người dân thì việc nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình ngân sách ở mọi cấp là rất quan trọng. Đặc biệt là việc nâng cao giải trình trong các khoản chi ngân sách. Việc cải thiện ngân sách cũng có thể bắt đầu từ việc tiết kiệm chi, không nhất thiết phải tăng cường thu./.

Theo Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách

CÔNG ĐOÀN KHOA KINH TẾ VÀ GIẢI BÓNG CHUYỀN CHÀO MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11

Với mục đích giao lưu, nâng cao tinh thần thể dục thể thao, tăng cường sức khỏe và chào mừng kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2018, Công đoàn trường Đại học Tây Bắc đã tổ chức giải bóng chuyền nữ cho giảng viên giữa các công đoàn cơ sở tại sân thể thao của trường.

Tham gia giải bóng chuyền có 10 đội bóng, với gần 100 vận động viên đến từ các công đoàn cơ sở tham gia thi đấu, và hàng trăm sinh viên, giảng viên cán bộ đến cổ vũ cho các trận đấu.

Đội thi Công đoàn Khoa Kinh tế thuộc bảng B với thế mạnh các đoàn viên trẻ, khoẻ, nhiệt tình và lối chơi thông minh, đã chiến thắng chênh lệch khá lớn trong các trận bóng với các đội thi của Công đoàn khoa Tiểu học mầm non, Ngoại ngữ, Sử địa, Văn phòng.

Các trận đấu diễn ra sôi nổi với tinh thần giao lưu, đoàn kết, học hỏi nhưng cũng không kém phần gay cấn và quyết liệt. Đội công đoàn Khoa Kinh tế đã cống hiến cho khán giả nhiều pha bóng hay, đẹp mắt, hấp dẫn, bám đuổi nhau quyết liệt về điểm số và giành giải khuyến khích.

Đội thi công đoàn khoa Kinh tế đã tham gia giải bóng chuyền nữ do công đoàn trường tổ chức đã để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng các vận động viên và những người hâm mộ môn bóng chuyền. Đây cũng là dịp để các đoàn viên công đoàn các đơn vị trong trường Đại học Tây Bắc có cơ hội giao lưu  và học hỏi nhau. Qua đó, tạo mối quan hệ thân thiết, hiểu biết lẫn nhau, thắt chặt tình đoàn kết giữa các công đoàn cơ sở nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. 

Dưới đây là một số hình ảnh của đội thi công đoàn khoa Kinh tế trong khuôn khổ giải bóng chuyền nữ do công đoàn trường Đại học Tây Bắc tổ chức nhân dịp kỉ niệm ngày nhà giáo Việt Nam 20/11/2018.

Đỗ Thị Thu Hiền

Khoa Kinh tế tham gia Hội thi tiếng hát sinh viên năm học 2018 – 2019

Căn cứ vào kế hoạch năm học 2018 – 2019, 19h00 ngày 17/11/2018, Trường Đại học Tây Bắc đã tổ chức Hội thi tiếng hát sinh viên với sự tham gia của 10 khoa đào tạo trong trường.

Hội thi diễn ra sôi nổi và rất kịch tính với tính chuyên môn cao và sự đầu tư kĩ lưỡng cả về nội dung và hình thức. Sau 30 ngày nỗ lực tập luyện vất vả và chăm chỉ khoa Kinh tế tham gia Hội thi tiếng hát sinh viên năm học 2018 – 2019 với tinh thần đoàn kết, tự tin và quyết tâm giành giải cao nhất của cuộc thi. Khoa Kinh tế tham gia thi ở lượt thứ 7, mà trước đó là khoa Tiểu học – Mầm non rất mạnh về văn nghệ nên đã đặt lên đôi vai của các bạn khoa Kinh tế áp lực rất lớn. Mặc dù vậy, đội thi của khoa Kinh tế vẫn rất tự tin với màn biểu diễn của mình.

Tiết mục mở đầu là tiết mục múa Thái nhằm gợi cho ban giám khảo và các bạn khán giả về bản sắc dân tộc Thái vùng Tây Bắc là áo Cóm và chiếc Khăn Piêu kết hợp với những chiếc mẹt hoa rất uyển chuyển.

Tiết mục thứ 2 là tiết mục hết sức đặc sắc đến từ đất nước triệu voi – CHDCND Lào xinh đẹp. Điều độc đáo trong múa Lào truyền thống đã được các bạn lưu học sinh Lào đang học tập tại khoa Kinh tế thể hiện. Đảng là đôi mắt, là trái tim của quần chúng nhân dân Lào, nhằm chuyển tải những thông điệp sâu sắc về tình hữu nghị Việt – Lào.

Sau tiết mục hấp dẫn đến từ các bạn lưu học sinh lào là bài hợp ca nam – nữ “Sơn la miền đất yêu thương” với sự thể hiện của các bạn sinh viên nam, nữ đến từ khoa Kinh tế, tiết mục mang đến cho các bạn khan giả, các bạn sinh viên đang học tập tại Sơn La hiểu và yêu mến mảnh đất Sơn La anh hùng nhiều hơn nữa và góp một phần công sức nhỏ bé vào xây dựng mảnh đất Sơn La giàu đẹp.

Sau một quá trình diễn ra hội thi hết sức nghiêm túc và sôi nổi. Khoa kinh tế dù đã cố gắng hết mình và mang về giải nhì. Đó là chiến thắng thay lời cảm ơn của các bạn sinh viên đến thầy cô khoa Kinh tế đã luôn dạy dỗ, chỉ bảo, đồng hành cùng các bạn sinh viên không chỉ trên giảng đường mà trong các hoạt động văn nghê, thể dục thể thao

Sau đây là một số hình ảnh tập luyện chăm chỉ và tham gia hội thi của khoa Kinh tế:

Đinh Thu Hiền

BỘ MÔN KẾ TOÁN ĐƯA SINH VIÊN K56 ĐẠI HỌC KẾ TOÁN TỚI ĐƠN VỊ THỰC TẬP

Thực tập tốt nghiệp là hoạt động giáo dục đặc thù nhằm góp phần hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực nghề nghiệp cần thiết của sinh viên theo mục tiêu đào tạo đã đề ra. Đối với sinh viên ngành Kế toán, hoạt động thực tập tốt nghiệp có vai trò quan trọng không chỉ với quá trình học tập mà còn với cả sự nghiệp của sinh viên sau này. Nhằm nâng cao hiệu quả thực tập tốt nghiệp của snh viên chuyên ngành Kế toán, Bộ môn Kế toán, Khoa Kinh tế, trường Đại học Tây Bắc đã thực hiện đổi mới chương trình thực tập, gắn liền thực tập với thực hành nghề nghiệp theo đúng nghĩa. Đặc biệt, năm học 2018-2019 là năm học bắt đầu có sự đổi mới chương trình đào tạo của khoa Kinh  tế, Khoa Kinh tế đã ký nhiều hợp đồng với các doanh nghiệp về việc tiếp nhận thực tập sinh của Khoa Kinh tế.

Một trong những bộ môn tiên phong trong việc đổi mới chương trình đào tạo, đặc biệt là thực tập tốt nghiệp, sáng ngày 19 tháng 11 năm 2018, Ts. Vũ Thị Sen – trưởng  bộ môn Kế toán và cô Lương Thị Thủy – GV bộ môn Kế toán đã trực tiếp đưa 13 sinh viên K56 ĐH Kế toán tới công ty THHH tư vấn giải pháp quản lý miền Bắc để các em bước đầu được kiểm tra kiến thức chuyên môn, chuẩn bị cho kỳ thực tập cuối năm học này.

(Chị Dương Thùy Dung – phó Giám đốc công ty THHH tư vấn giải pháp quản lý miền Bắc đang trao đổi và phổ biến quy chế tới các em sinh viên)

Chương trình thực tập tốt nghiệp theo hướng đổi mới, yêu cầu cao hơn sự tự chủ động của sinh viên, từ việc các em tự thu thập chứng từ gốc đầy đủ theo nội dung các nghiệp vụ, tới việc tự lên sổ và báo cáo kế toán theo cách thức các em lựa chọn, đòi hỏi các em phải nắm được quy trình và hệ thống lại được kiến thức lý thuyết và thực hành kế toán để vận dụng vào thực tế thực tập. Mặt khác sự tự chủ động cho thực tập của mình đòi hỏi các em phải tự vượt qua những thử thách, khó khăn khi tiếp cận công việc trong môi trường thực tế. Đây là cơ hội tốt để các em học hỏi, nâng cao trình độ, hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp. Đặc biệt, trong bộ kết quả báo cáo thực tập, sinh viên cần phải chứng minh sự nỗ lực trong quá trình thực tập bằng cách thuyết minh được những nội dung công việc mình đã làm, cách thức thực hiện, đồng thời biết cách đối chiếu, kiểm tra số liệu kế toán để nhận diện những sai sót và sửa sai trong bộ sản phẩm cuối cùng của kỳ thực tập. Thời gian thực tập này chính là cơ hội tốt để sinh viên tìm kiếm cơ hội việc làm, hòa nhịp với hoạt động lao động thực tế, mong rằng các em sẽ tích lũy được kinh nghiệm, chuẩn bị hành trang để tự tin hơn khi rời giảng đường đại học.

Lương Thị Thủy