Chuyên mục chính

Kinh tế – tài chính trong nước tuần từ 25/02-01/3/2019

KINH TẾ – TÀI CHÍNH VIỆT NAM Nội dung
Tổng cung  
PMI Lĩnh vực sản xuất của Việt Nam vẫn tăng trưởng chậm trong tháng 2 (dữ liệu thu thập từ ngày 12 – 20/tháng 2). So với tháng 1, PMI đã giảm 0,7 điểm, chỉ còn 51,2 điểm. Tuy sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tăng nhanh hơn nhưng lượng việc làm và tồn kho giảm đã làm cho PMI bị ảnh hưởng. Như vậy, dù vẫn nằm trên ngưỡng trung bình 50 điểm nhưng PMI đã giảm 3 tháng liên tiếp, ở mức thấp nhất kể từ tháng 3/2016. (Theo Nikkei ngày 1/3)
Dịch vụ Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 2/2019 ước đạt hơn 1,58 triệu lượt người, tăng 5,8% so với tháng trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tháng đón lượng khách quốc tế lớn nhất từ trước đến nay, do đang vào mùa lễ hội đầu năm với nhiều sự kiện hấp dẫn thu hút du khách quốc tế.  Tính chung 2 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 3 triệu lượt người, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không tăng 5,5%; đường bộ tăng 29,5%; đường biển giảm 40,7%.

(Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Doanh nghiệp Theo Bảng xếp hạng FAST500 – Top 500 Doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam 2019, giai đoạn 2014 – 2018, tốc độ tăng trưởng doanh thu kép CAGR trung bình của doanh nghiệp FAST500 đạt 38%. Kinh tế tư nhân thể hiện rõ vai trò là nguồn lực tăng trưởng của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng CAGR trung bình đạt 39,6%, vượt xa khu vực nhà nước và FDI.

Kinh tế tư nhân cũng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong FAST500 với 81,4% số doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp lạc quan trước kết quả kinh doanh năm 2018 (85,6% đánh giá doanh thu năm 2018 tăng so với năm 2017, 64,3% nhận định lợi nhuận sau thuế có tăng lên). Gần 70% doanh nghiệp có dự định mở rộng kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo.

(Theo Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam – Vietnam Report – ngày 27/02)

Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam hiện có 1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia được vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Số doanh nghiệp đang hoạt động trong công nghiệp hỗ trợ hiện chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp của ngành công nghiệp chế biến – chế tạo. Như vậy mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam có khoảng 1.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam là khó khả thi.

(Theo Baodautu.vn ngày 26/02)

Tính đến hết ngày 25/02/2019 đã có tổng cộng 1.005 doanh nghiệp công bố báo cáo tài chính quý IV/2018 (chiếm 98% vốn hóa trên 3 sàn). Tổng lợi nhuận ròng cả năm 2018 của các doanh nghiệp đạt khoảng 276,2 nghìn tỷ đồng, tăng 18,9% so với năm 2017. Tuy nhiên nếu loại trừ lợi nhuận đột biến của VHM (tăng gần 13 nghìn tỷ đồng lợi nhuận) thì con số này chỉ là 13,3%. Ngành bất động sản dẫn đầu tăng trưởng lợi nhuận với mức tăng 75%, chủ yếu do lợi nhuận đột biến từ VHM. Nếu loại trừ VHM thì tăng trưởng đạt 22,8%.

(Theo Công ty cổ phần Chứng khoán SSI  ngày28/02)

Tháng 2/2019, cả nước có 5,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 96,3 nghìn tỷ đồng, giảm 41,5% về số doanh nghiệp và giảm 36,3% về số vốn đăng ký so với tháng trước. Tính chung 2 tháng đầu năm nay, cả nước có 15.979 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 247,4 nghìn tỷ đồng, giảm 14,6% về số doanh nghiệp và tăng 25,4% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018.

Bên cạnh đó, có 10.191 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 48,2% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động lên gần 26,2 nghìn doanh nghiệp. Tổng số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, giải thể, phá sản trong 2 tháng đầu năm 2019 lên tới 16.675 doanh nghiệp, bằng 104,36% doanh nghiệp thành lập mới. (Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Tổng cầu  
Đầu tư Trong 2 tháng đầu năm 2019, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đạt 6,25 triệu USD. Trong đó, có 3 dự án thuộc lĩnh vực bán buôn bán lẻ với tổng vốn đầu tư là 5,6 triệu USD, chiếm 89,5% tổng vốn đầu tư; 2 dự án thuộc lĩnh vực hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ và thông tin và truyền thông. Các nước nhận đầu tư của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2019 là Hoa Kỳ, Singapore, Phần Lan, Nhật Bản.

(Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư  ngày 26/02)

Tính từ đầu năm đến ngày 20/2/2019, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là gần 8,471 tỷ USD, tăng hơn 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, cả nước thu hút 514 dự án mới với tổng vốn đăng ký 2,44 tỷ USD, tăng 75,7% so với cùng kỳ năm 2018; 176 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm 854,8 triệu USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2018; 1.039 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp 5,17 tỷ USD, gấp hơn 4 lần so với cùng kỳ 2018 và chiếm 61% tổng vốn đăng ký. Vốn đầu tư nước ngoài đã giải ngân trong 2 tháng đạt 2,58 tỷ USD, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2018. Đây là mức tăng cao nhất của 2 tháng đầu năm trong vòng 3 năm trở lại đây cả về giá trị và tốc độ tăng. (Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư  ngày 26/02)
Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ sung 218,446 tỷ đồng kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn nước ngoài giai đoạn 2016 – 2020 và năm 2018 cho các bộ, ngành và địa phương. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được bổ sung 138,592 tỷ đồng để thực hiện Dự án Hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hóa ngân hàng; Dự án Hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 của 5 địa phương được bổ sung 79,854 tỷ đồng, trong đó Hà Giang 28 tỷ đồng, Hòa Bình 18 tỷ đồng, Quảng Trị 8,454 tỷ đồng, Kon Tum 16,4 tỷ đồng và Trà Vinh 9 tỷ đồng. (Theo baodautu.vn ngày 22/02)
Hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 2/2019 đạt khoảng 390,8 nghìn tỷ đồng, giảm 3% so với tháng 1/2018 nhưng vẫn tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2018. Mặc dù hoạt động bán lẻ và kinh doanh dịch vụ tháng 2/2019 diễn ra sôi động phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên đán,  nhưng tháng 2 chỉ có 28 ngày và thời gian nghỉ Tết kéo dài nên doanh thu hoạt động thương mại dịch vụ trong nước giảm so với tháng trước. Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt khoảng 793,8 nghìn tỷ đồng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,28%.

(Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Xuất – nhập khẩu Hai tháng đầu năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 36,68 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 10,72 tỷ USD, tăng 9,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 25,96 tỷ USD (chiếm 70,8% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 4,3%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam là: điện thoại và linh kiện đạt 6,8 tỷ USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước; hàng dệt may đạt 4,9 tỷ USD, tăng 19%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4,2 tỷ USD, tăng 1,9%.

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 8,1 tỷ USD, tăng 34,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU với 6,3 tỷ USD, tăng 1,2%; Trung Quốc 5,1 tỷ USD, giảm 9,3%;  ASEAN 3,8 tỷ USD, tăng 3,5%;  Nhật Bản 3,2 tỷ USD, tăng 17,3%; Hàn Quốc 3,1 tỷ USD, tăng 10,1%.

(Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản trong tháng 1/2019 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, bằng 90,4% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, giá trị xuất khẩu nhóm hàng nông sản chính ước đạt 1,55 tỷ USD, bằng 82,8% so với cùng kỳ năm 2018. Giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 2,57 tỷ USD, giảm 6,8% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, nhập khẩu mặt hàng phân bón, thuốc trừ sâu và các nông sản chính khoảng 2,19 tỷ USD, giảm 6%.

(Theo vneconomy.vn  ngày 26/02)

Tổng cục Hải quan cho biết, trong tháng đầu năm 2019, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Canada đạt 379 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 317 triệu USD, tăng 33,83% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu đạt 62,62 triệu USD, tăng 6,85% so với tháng 1/2018. Việt Nam đã xuất siêu sang Canada trên 250 triệu USD.

(Theo Báo vov.vn  ngày 27/02)

Tổng cục Hải quan cho biết, Việt Nam đã xuất khẩu được 486.712 tấn dầu thô trong tháng 1/2019, tương đương 225,79 triệu USD, tăng 39% về lượng, tăng 49% về kim ngạch so với tháng 12/2018; tăng 26% về lượng, tăng 10% về kim ngạch so với tháng 1/2018.

Mức giá xuất khẩu dầu thô đạt trung bình 463,9 USD/tấn, tăng 7,4% so với tháng 12/2018 nhưng giảm 12,5% so với tháng 1/2018. Thái Lan là thị trường nhập khẩu dầu thô lớn nhất của Việt Nam trong tháng đầu tiên của năm 2019, chiếm tỷ trọng 41% (199.349 tấn), kim ngạch gần 94,35 triệu USD, tăng 81,8% về lượng và tăng 88,3% về kim ngạch so với tháng 12/2018; tăng 185% về lượng và tăng 146,7% về kim ngạch so với tháng 1/2018. (Theo Baocongthuong.vn ngày 23/02)

Năm 2019, ngành thủy sản đặt mục tiêu đạt sản lượng nuôi cá tra 1,51 triệu tấn, tăng 6,6% so với năm 2018; kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2,4 tỷ USD, tăng 12% so với năm 2018. Tuy nhiên, năm 2019 các thị trường xuất khẩu cá tra chủ lực của Việt Nam như Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU… được đánh giá có nhiều yếu tố thuận lợi, do vậy, xuất khẩu cá tra có thể đạt kim ngạch 2,5 tỷ USD. (Theo baohaiquan.vn ngày 26/02)
Tháng 2/2019, lượng cao su xuất khẩu đạt 51 nghìn tấn, trị giá 76 triệu USD, giảm 61,8% về lượng và 61% trị giá so với tháng 1/2019. Đây là tháng thứ hai liên tiếp kể từ đầu năm 2019, xuất khẩu cao su giảm nhưng tăng 18,2% về lượng và 2,9% trị giá so với tháng 2/2018. Tính chung 2 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu cao su đạt khoảng 186 nghìn tấn, trị giá 274 triệu USD. (Theo baocongthuong.vn  ngày 25/02)
Tổng cục Hải quan cho biết, trong giai đoạn 2010 – 2018, giá trị thương mại hàng hóa Việt Nam – Hoa Kỳ đã tăng gấp 3 lần, từ 18,01 tỷ USD (năm 2010) lên 60,28 tỷ USD trong năm 2018; tốc độ tăng kim ngạch xuất – nhập khẩu giữa hai nước bình quân đạt 16,3%/năm; tốc độ tăng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ bình quân đạt 16,3%/năm, từ 14,24 tỷ USD trong năm 2010 lên đến 47,53 tỷ USD trong năm 2018. Tốc độ tăng của hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng tăng bình quân 16,5%/năm, từ 3,77 tỷ USD (năm 2010) lên 12,75 tỷ USD (năm 2018). Cán cân thương mại hàng hóa Việt Nam với Hoa Kỳ trong năm 2018 thặng dư gần 34,8 tỷ USD, bằng 73,2% trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. (Theo thoibaotaichinh.vn ngày 28/02)
Cân đối vĩ mô  
Lạm phát – Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 2/2019 CPI tháng 2/2019 tăng 0,8% so với tháng 1/2019 và tăng 2,64% so với cùng kỳ năm 2018, do nhu cầu tiêu dùng tăng trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi. CPI bình quân 2 tháng đầu năm 2019 tăng 2,6% so với bình quân cùng kỳ năm 2018. Có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tháng 2 tăng so với tháng trước.

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất với 1,73%. Tiếp theo là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,69%. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,66%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,35%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,26%. Lạm phát cơ bản tháng 2/2019 tăng 0,48% so với tháng trước và tăng 1,82% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản 2 tháng đầu năm 2019 tăng 1,82% so với cùng kỳ năm trước.

(Theo Tổng cục Thống kê ngày 28/02)

Giá vàng Trong tuần qua, giá vàng có 1 ngày tăng giá, 4 ngày giảm giá và 1 ngày giá không đổi. Trong phiên giao dịch ngày 02/3 so với ngày 02/3 giá vàng miếng SJC được niêm yết tại một số doanh nghiệp kinh doanh vàng:

– Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn: 6,55 – 36,75 triệu đồng/lượng, giảm 200 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua vào và bán ra.

– Công ty Doji: 36,59 – 36,69 triệu đồng/lượng, giảm 210 nghìn đồng/lượng ở chiều mua vào và giảm 230 nghìn đồng/lượng chiều bán ra

Tỷ giá Tính chung tuần qua, tỷ giá trung tâm tăng 17 đồng so với tuần trước với 2 ngày tăng giá, 3 ngày giảm giá và 1 ngày không thay đổi. Trong phiên giao dịch ngày 02/3, tỷ giá trung tâm 22.923 đồng, không đổi so với ngày 01/3; tỷ giá USD tại một số ngân hàng thương mại không có nhiều thay đổi so với ngày 01/3 như sau:

– Vietcombank và Techcombank: 23.150 – 23.250 VND/USD, không đổi.

– BIDV: 23.150 – 23.250 VND/USD, giảm 5 đồng ở mỗi chiều.

Tín dụng Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến cuối năm 2018, thống tổ chức tín dụng đã cho vay trong lĩnh vực lúa gạo khoảng 99 nghìn tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2017. Đến cuối tháng 1/2019, dư nợ cho vay lúa gạo của toàn ngành ngân hàng đạt khoảng 100 nghìn tỷ đồng. Trong đó, cho vay sản xuất lúa khoảng 23 nghìn tỷ đồng; cho vay thu mua, tiêu thụ lúa gạo khoảng 63 nghìn tỷ đồng và cho vay chế biến, bảo quản lúa gạo khoảng 14 nghìn tỷ đồng. (Theo Thoibaonganhang.vn  ngày 26/02)
Thị trường tài sản  
Trái phiếu Trong phiên đấu thầu ngày 27/02, Kho bạc Nhà nươc (KBNN) gọi thầu 4.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP) và huy động thành công 3.950 tỷ đồng, với các kỳ hạn như sau:

– TPCP kỳ hạn 7 năm huy động được 100 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu 4,05%/năm, bằng lãi suất trúng thầu phiên trước đó (ngày 13/2/2019).

– TPCP kỳ hạn kỳ hạn 10 năm huy động thành công 2.500 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu 4,7%/năm, bằng lãi suất trúng thầu phiên trước đó (ngày 13/2/2019).

– Phiên thầu phụ kỳ hạn 10 năm gọi thầu 1.250 tỷ đồng, huy động được 1.250 tỷ đồng với lãi suất 4,7%/năm.

– TPCP kỳ hạn 30 năm huy động được 100 tỷ đồng với lãi suất trúng thầu 5,79%/năm, bằng lãi suất trúng thầu phiên trước đó (ngày 13/2/2019).

Từ đầu năm 2019, KBNN đã huy động được 55.193,5 tỷ đồng thông qua đấu thầu TPCP tại HNX.

(Theo baonhandan.com.vn  ngày 28/02)

  Ủy ban Chứng khoán Nhà nướccho biết, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại thời điểm cuối năm 2018 là 474.500 tỷ đồng, bằng 8,6% GDP năm 2018, tăng 53% so với cùng kỳ năm 2017. Hầu hết các thương vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp đều được thực hiện dưới hình thức phát hành trái phiếu riêng lẻ với khối lượng đăng ký phát hành là 427.000 tỷ đồng, khối lượng phát hành thành công là 224.000 tỷ đồng, tăng 94,5% so với năm 2017. (Theo Thoibaotaichinh.vn  ngày 25/02)
Cổ phiếu Trong tuần từ ngày 25/02 – 01/3/2019:

– VN-Index: có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, VN-Index tăng 14,16 điểm (+1,47%), đứng ở mức 979,63 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 226,64 triệu đơn vị/ngày, tăng 14,27% so với tuần trước. Tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 5.001,66 triệu đơn vị/ngày, tăng 8,97% so với tuần trước.

– HNX-Index có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, HNX-Index tăng 1,4 điểm (+1,32%) lên 107,26 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 50,1 triệu đơn vị/phiên, tăng 41,55% so với tuần trước.

Tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 700,26 triệu đơn vị/ngày, tăng 42,56% so với tuần trước.

– Upcom-Index có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, UPCoM-0,56 điểm (+1,01%) lên 55,68 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 14,8 triệu đơn vị/ngày, giá trị 305,5 tỷ đồng.

Trong tuần qua, khối ngoại đã bán ròng 50,61 triệu đơn vị, tăng gần 185% so với tuần trước. Tổng giá trị bán ròng 1.183,4 tỷ đồng (trong khi tuần trước mua ròng 45,24 tỷ đồng).

– HOSE: Khối ngoại thực hiện 2 ngày mua ròng và 3 ngày bán ròng với tổng khối lượng bán ròng 10,03 triệu đơn vị, tổng giá trị tương ứng 349,64 tỷ đồng (trong khi tuần trước mua ròng 8,26 triệu đơn vị, tổng giá trị mua ròng tương ứng 540,47 tỷ đồng).

– HNX: Khối ngoại thực hiện 3 ngày mua ròng và 2 ngày bán ròng  với tổng khối lượng bán ròng 40,68 triệu đơn vị, tổng giá trị tương ứng 867,78 tỷ đồng (trong khi tuần trước đó mua ròng 1,98 triệu đơn vị, tổng giá trị mua ròng 55,41 tỷ đồng).

– UPCoM: Khối ngoại mua ròng 5 phiên liên tiếp với tổng khối lượng 103.900 đơn vị, tổng giá trị 34,02 tỷ đồng (trong khi tuần trước đó bán ròng gần 28 triệu đơn vị, tổng giá trị bán ròng tương ứng 550,64 tỷ đồng).

Đàm phán – Ký kết Ngày 27/02, trong buổi hội đàm nhân chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ tới Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ – Triều Tiên lần hai, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Donal Trump đã chứng kiến lễ ký kết các văn kiện hợp tác.

Theo đó, Hãng hàng không Bamboo Airways (thuộc tập đoàn FLC) đã ký thỏa thuận mua 10 máy bay thân rộng Boeing 787-9 Dreamliner trị giá gần 3 tỷ USD với Tập đoàn Boeing (Hoa Kỳ). Hãng hàng không Vietjet cũng ký hợp đồng mua 100 tàu bay Boeing 737 Max với giá trị 12,7 tỷ USD, đồng thời ký kết thỏa thuận về dịch vụ dài hạn bảo dưỡng động cơ máy bay với Tập đoàn GE trị giá 5,3 tỷ USD…

(Theo Vneconomy.vn ngày 27/02)

Nhận định

chuyên gia

TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính – ngân hàng:

Nguồn tiền huy động của ngành Ngân hàng Việt Nam chủ yếu là ngắn hạn, nếu đem cho vay trung, dài hạn với tỷ lệ cao sẽ dẫn đến rủi ro về thanh khoản. Vì vậy cần giảm dần tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung – dài hạn xuống 30%, thậm chí xuống 20% (hiện nay là 40%). Để làm việc này cần có thời gian và lộ trình để các ngân hàng có sự chuẩn bị, có thể trong khoảng 2 – 3 năm. (Theo infomoney.vn ngày 28/02)

Kinh tế – tài chính quốc tế tuần từ 25/02-01/3/2019

KINH TẾ – TÀI CHÍNH THẾ GIỚI Nội dung
Châu Âu Anh:

– Sản lượng xe mới trong tháng 01/2019 tại nước Anh đạt 120.649 chiếc, giảm 18,2% – tháng giảm thứ 8 liên tiếp, do sự thay đổi các mẫu xe và nhu cầu yếu tại Anh cũng như các thị trường xuất khẩu lớn (lượng xe xuất khẩu giảm 21,4%). Ngành công nghiệp ô tô đang đối mặt với nhiều thách thức từ sự sụt giảm nhu cầu tại các thị trường chủ chốt, tình trạng leo thang căng thẳng thương mại toàn cầu, cho đến yêu cầu phải đi đầu trong phát triển công nghệ tương lai.

Trong đó nguy cơ kịch bản Brexit không đạt được thỏa thuận có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với ngành sản xuất ô tô châu Âu. Dự báo doanh số bán ô tô tại Anh sẽ giảm 2% trong năm 2019 do niềm tin của người tiêu dùng thấp và các tác động bất lợi từ sự kiện Brexit. (Theo Hiệp hội các nhà chế tạo và buôn bán ô tô Anh  – SMMT  ngày 28/02)

– Anh đã đạt được thỏa thuận tiếp tục ở lại trong Hiệp định Mua sắm Chính phủ (GPA) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau khi nước này rời khỏi Liên minh châu Âu (EU). Anh là một thành viên ký GPA và có quyền tiếp cận thị trường mua sắm công trị giá 1.700 tỷ USD.

Được ký kết vào năm 1994, GPA – bao gồm các nền kinh tế lớn như EU, Hoa Kỳ, Canada và Nhật Bản – hướng tới mở cửa nhiều nhất có thể các thị trường mua sắm công và cho phép cạnh tranh nước ngoài trong các dự án chính phủ, đảm bảo mua sắm trở nên minh bạch. (Theo Chính phủ Anh ngày 27/02)

– Niềm tin tiêu dùng ở Anh tháng 02/2019 đã tăng từ -14 điểm trong tháng 01/2019 lên -13 điểm và cao hơn mức kỳ vọng của thị trường là -15 điểm, nhờ sự hỗ trợ của niềm tin đối với việc làm và tiền lương. (Theo Công ty GfK NOP ngày 28/02)

Châu Á Thái Lan:

– Ủy ban Đầu tư Thái Lan (BoI) đã phê duyệt 5 dự án đầu tư với tổng trị giá 40,462 tỷ THB (gần 1,3 tỷ USD), được triển khai trong khu vực Hành lang Kinh tế phía Đông (EEC). Đề án đầu tư lớn nhất đến từ nhà đầu tư Trung Quốc với tổng mức đầu tư dự kiến 10,061 tỷ THB (322 triệu USD) để triển khai dự án sản xuất lốp ô tô ở tỉnh Chon Buri; tiếp đến là dự án của hãng sản xuất lốp ô tô General Rubber, với tổng giá trị 9,721 tỷ THB (hơn 310 triệu USD); dự án xây dựng trung tâm bảo dưỡng, sửa chữa, đại tu máy bay ở tỉnh Rayong của liên doanh Thai Airways với một công ty nước ngoài trị giá 6,468 tỷ THB (206 triệu USD); dự án của hãng hàng không giá rẻ Thai Lion trị giá 6,968 tỷ THB (223 triệu USD); dự án của công ty sản xuất phụ tùng ô tô AW Thailand ở tỉnh Chon Buri, trị giá 7,244 tỷ THB (232 triệu USD). (Theo truyền thông Thái Lan ngày 26/02)

– Tỷ lệ thất nghiệp ở Thái Lan trong tháng 01/2019 đã giảm 0,3% xuống còn 1% so với cùng kỳ năm 2018. Số người thất nghiệp giảm 85 nghìn so với năm 2018 xuống còn 390 nghìn người, trong khi số người có việc làm tăng 430 nghìn người lên 37,50 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp ở Thái Lan trung bình đạt 1,43% trong giai đoạn 2001 – 2018, mức cao nhất lịch sử là 5,73% vào tháng 01/2001 và mức thấp kỷ lục là 0,39% vào tháng 11/2012. (Theo Ngân hàng Thái Lan ngày 26/02)

– Chỉ số PMI sản xuất Thái Lan tháng 02/2019 đã giảm xuống 49,9 điểm từ 50,2 điểm trong tháng 01/2019, ghi nhận mức yếu nhất trong 3 tháng qua, do việc làm tiếp tục giảm tháng thứ năm liên tiếp; các nhà sản xuất trở nên thận trọng hơn về mức tồn kho, cắt giảm mua hàng đầu. Dự báo trong thời gian tới, chỉ số PMI được cải thiện nhờ gia tăng doanh số, chiến lược tiếp thị mới phát huy hiệu quả và việc cung cấp sản phẩm được mở rộng hơn.

(Theo Nikkei ngày 01/3)

Ấn Độ:

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi ngày 23/02 đã công bố tầm nhìn đưa Ấn Độ trở thành nền kinh tế quy mô 10.000 tỷ USD, lớn thứ 3 thế giới, đồng thời bày tỏ mong muốn nước này sẽ có vô số những công ty khởi nghiệp và dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực ô tô điện.

Ấn Độ vượt qua hàng loạt khó khăn kinh tế như lạm phát vượt kiểm soát và thâm hụt tài khoản vãng lai gia tăng, qua đó đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,4%, cao nhất thời hậu tự do hóa, lạm phát ở mức thấp nhất dưới 4,5%. Bên cạnh đó, những cải cách về thuế hàng hóa và dịch vụ đã tạo nền tảng vững chắc thúc đẩy tăng trưởng GDP. (Theo Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi ngày 23/02)

Hàn Quốc:

Tháng 01/2019, sản xuất công nghiệp ở Hàn Quốc đã tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2018, thấp hơn so với mức tăng 0,7% của tháng 12/2018 và 1% theo dự báo của thị trường. Tính theo tháng, sản lượng công nghiệp tăng 0,5%, cao hơn mức giảm 0,8% trong tháng 12/2018 và mức dự báo 0,2% của thị trường.

(Theo Tổng cục Thống kê Hàn Quốc ngày 28/02)

Châu Úc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Australia (RBA) vừa công bố mẫu tờ tiền 20 AUD mới với những thay đổi lớn trong thiết kế chống làm giả. Mẫu tiền này dự kiến sẽ được phát hành trên toàn quốc vào tháng 10/2019.

Tờ 20 AUD mới có một số chi tiết nổi bật để “nâng cao tính an toàn và dễ nhận diện”: Miếng polymer trong suốt có chứa các đặc tính động chẳng hạn như hình ảnh chim kookaburra chuyển động cánh và thay đổi màu sắc có thể quan sát được khi nhìn nghiêng tờ tiền; sử dụng kỹ thuật ‘microprint’ (chữ in rất nhỏ) nhằm chống làm giả; thiết kế với ba đường in nổi ở gần hai cạnh dài của tờ tiền nhằm giúp người khiếm thị dễ dàng phân biệt với những tờ tiền khác. Sau tờ 20 AUD, RBA sẽ phát hành tờ 100 AUD mới vào năm 2020. (Theo TTXVN ngày 23/02)

Hoa Kỳ Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Kinh tế kinh doanh quốc gia Hoa Kỳ (NABE) đối với 281 thành viên từ ngày 30/01 – 08/02, khoảng 86% số nhà kinh tế cho rằng, việc áp thuế đối với mặt hàng ô tô nhập khẩu có thể tác động đến nền kinh tế Hoa Kỳ.

Bên cạnh đó, các nhà kinh tế cũng lo ngại mức thuế quan hiện nay mà Hoa Kỳ đang áp dụng với các mặt hàng nhập khẩu, có có tới 36% số ý kiến được hỏi cho rằng nếu vẫn duy trì mức thuế quan hiện nay thì tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ trong năm 2019 sẽ giảm 25 điểm cơ bản (0,25 điểm phần trăm), trong khi 26% dự đoán tăng trưởng GDP giảm 50 điểm cơ bản (0,5 điểm phần trăm). (Theo NABE ngày 25/02)

Gần một nửa các nhà kinh tế học kinh doanh tại Hoa Kỳ được khảo sát nhận định rằng nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ rơi vào suy thoái vào cuối năm 2020; 10% cho biết suy thoái kinh tế có thể ngay trong nửa đầu năm 2019; 11% cho rằng có thể tránh khỏi suy thoái qua năm 2021.

Kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu đà tăng trưởng từ tháng 6/2009, khi cuộc đại suy thoái chính thức chấm dứt. Đà tăng trưởng nếu kéo dài qua tháng 6/2019 thì kinh tế Hoa Kỳ sẽ lập nên một kỷ lục về khoảng thời gian tăng trưởng. Nhiều nhà kinh tế học nhận định tốc độ tăng vừa phải hơn 2% thường niên đã góp phần kéo dài đà tăng trưởng đi lên của Hoa Kỳ. (Theo NABE ngày 25/02)

Văn phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ ngày 27/02 tuyên bố sẽ chính thức đình chỉ việc tăng thuế đối hàng hóa Trung Quốc cho tới khi có thông báo mới, sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump quyết định hoãn hạn chót ngày 01/3 để đạt được thỏa thuận thương mại Hoa Kỳ – Trung Quốc trong bối cảnh đàm phán giữa hai nước có nhiều tiến triển. Hiện tổng lượng hàng hóa bị đánh thuế cao của hai nước đã lên tới hơn 360 tỷ USD. Nếu giới chức hai nước không đạt được giải pháp cho cuộc chiến thương mại, Hoa Kỳ sẽ tăng mức thuế từ 10% hiện nay lên 25% đối với lượng hàng hóa Trung Quốc trị giá 200 tỷ USD. (Theo Reuters ngày 28/02)
Tốc độ tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ đạt 2,9%, tăng 2,2% so với năm 2017 và gần bằng mức tăng trưởng mục tiêu được Tổng thống Donald Trump đặt ra. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 13 năm qua. Văn phòng Ngân sách Quốc hội Hoa Kỳ tháng 01/2019 dự báo Hoa Kỳ sẽ đạt mức tăng trưởng 2,3% trong năm 2019, do chính sách cắt giảm thuế thực hiện vào năm 2017, cũng như việc cắt giảm dần các biện pháp kích thích tài chính. (Theo Bộ Thương Mại Hoa Kỳ ngày 27/02)
Trung Quốc Chỉ số PMI của Trung Quốc trong tháng 02/2019 giảm từ 49,5 điểm (tháng 01/2019) xuống 48,2 điểm, báo hiệu sự sụt giảm của hoạt động sản xuất, do đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cùng với nhu cầu trong nước suy giảm. Đây là tháng thứ ba liên tiếp chỉ số này giảm và là lần đầu tiên hoạt động sản xuất của Trung Quốc sụt giảm kể từ tháng 01/2009, thời điểm toàn cầu chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính. (Theo Cơ quan Thống kê quốc gia Trung Quốc ngày 28/02)
 

Nhật Bản

Chính phủ Nhật Bản đã tán thành kế hoạch ký kết thỏa thuận thương mại tự do (FTA) sửa đổi với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bao gồm cả việc tự do hóa lĩnh vực dịch vụ và đầu tư. FTA giữa các thành viên ASEAN, đối tác thương mại lớn của Nhật Bản ở châu Á sau Trung Quốc, sẽ có hiệu lực tại các nước đã hoàn tất các thủ tục nội bộ.

Nhật Bản sẽ ký hiệp định này vào ngày 27/02 và trình lên Quốc hội thông qua trong mùa Thu này. Trong khi đó, các nước ASEAN dự kiến bắt đầu ký kết từ ngày 02/3 tới. Nhật Bản cũng đã ký các FTA song phương với 7 nước ASEAN gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, nhưng chưa ký với Myanmar, Lào và Campuchia. (Theo Chính phủ Nhật Bản ngày ngày 26/02)

Sản xuất công nghiệp tại Nhật Bản tháng 01/2019 đã giảm 3,7% so với tháng 12/2018, cao hơn mức giảm 0,1% so theo tháng của tháng 12/2018 và 2,5% của thị trường. Đây là mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 01/2018, chủ yếu do xe cơ giới giảm 8,6%; máy móc chạy bằng điện, thiết bị điện tử thông tin và truyền thông giảm 9,9%; máy móc sản xuất giảm 9,8%. (Theo Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản ngày 28/02)
Chứng khoán – Chứng khoán Hoa Kỳ: Trong tuần từ ngày 25/02 – 01/3/2019, chỉ số Dow Jones giảm 0,02%; S&P 500  và Nasdaq Composite tăng lần lượt 0,39% và 0,9%, so với chốt phiên giao dịch cuối tuần trước (22/02/2019). Trong ngày giao dịch 01/3/2019:

+ Dow Jones tăng 110,32 điểm (+0,43%) lên 26.026,32 điểm.

+ S&P 500 S&P 500 tăng 19,20 điểm (+0,69%) lên 2.803,69 điểm.

+ Nasdaq Composite tăng 62,82 điểm (+0,83%) lên 7.595,35 điểm.

– Chứng khoán châu Á: Tính chung cả tuần, MSCI châu Á – Thái Bình Dương giảm 0,48 điểm (-0,31%). Trong ngày giao dịch cuối tuần (01/3/2019) so với phiên giao dịch hôm trước, các chỉ số:

– Nikkei 225 (Nhật Bản) tăng 217,53 điểm (+1,02%) lên 21.602,69 điểm.

– Shanghai Composite (Thượng Hải) tăng 53,05 điểm (+1,80%) lên 2.994,00 điểm.

– Hang Seng (Hồng Kông) tăng 178,99 điểm (+0,63%) lên 28.812,17 điểm.

Dầu mỏ Khối lượng khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) được giao dịch trên toàn cầu sẽ tăng 11% lên 354 triệu tấn trong năm 2019, khi các cơ sở sản xuất mới đi vào hoạt động sẽ tăng nguồn cung cho châu Âu và châu Á. Châu Á tiếp tục là khu vực chiếm lĩnh thị trường, Nhật Bản tiếp tục là nước tiêu thụ khí đốt tự nhiện hóa lỏng hàng đầu thế giới và Trung Quốc đứng thứ hai. (Theo Tập đoàn Royal Dutch Shell ngày 26/02)
Trong tuần kết thúc vào ngày 22/02, các kho dự trữ dầu thô của Hoa Kỳ giảm 8,647 triệu thùng, từ mức tăng 3,672 triệu trong tuần trước đó. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ tuần kết thúc vào ngày 06/7/2018. Trong khi đó, tồn kho xăng giảm 1,906 triệu thùng, sau khi giảm 1,454 triệu trong tuần trước đó.

(Theo Cơ quan Thông tin năng lượng Hoa Kỳ – EIA  ngày 28/02)

Xuất khẩu dầu thô của Venezuela đã giảm 40% trong tháng 01/2019, từ 1,66 triệu thùng/ngày xuống còn 920.000 thùng/ngày, do tác động của các biện pháp trừng phạt mới mà Hoa Kỳ đưa ra hồi đầu năm 2019 nhằm gây sức ép đối với Chính phủ của Tổng thống Nicolas Maduro. Khoảng 70% số lượng dầu thô xuất khẩu của Venezuela hiện nay được chuyển cho các khách hàng ở châu Á, trong đó đối tác lớn nhất là Ấn Độ, tiếp đến là Singapore và Trung Quốc; ngoài ra là cac thị trường tại châu Âu, Hoa Kỳ, khu vực Caribe…

(Theo Tập đoàn dầu khí quốc gia Venezuela PDVSA ngày 28/02)

Tuần từ ngày 25/02 – 01/3/2019, giá dầu WTI và Brent giảm lần lượt 2,55% và 1,65%. Chốt phiên giao dịch cuối tuần (01/3/2019), giá dầu thô kỳ hạn:

– Dầu WTI của Hoa Kỳ giảm 1,42 USD (-2,54%) xuống 55,80 USD/thùng.

– Dầu Brent giảm 0,02 USD (-0,03%) xuống 66,01 USD/thùng.

Vốn chứng khoán cần được ưu tiên phát triển

Tại hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) cuối tuần qua, nhiều thành viên thị trường cho rằng cần xây dựng thể chế đủ mạnh để chứng khoán thực sự cạnh tranh với ngân hàng (NH) và là nơi cung cấp vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế; có các giải pháp về sản phẩm mới để TTCK thu hút hơn nữa NĐT tham gia…

Thị trường chứng khoán cần thể chế đủ mạnh 

Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng, hiện nay tổng tín dụng được cấp qua kênh NH khoảng 7,5 triệu tỷ đồng, tương đương 130% GDP. Điều đó cho thấy, nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp dựa rất lớn vào hệ thống NH, trong khi bản chất nhà băng là nơi cung cấp vốn ngắn hạn, đã tạo áp lực rất lớn cho hệ thống NH trong cung ứng vốn dài hạn, cân đối vốn và xử lý nguồn vốn để tránh rủi ro kỳ hạn.

Vì thế, trong thị trường vốn, rất cần phát triển thị trường trái phiếu DN (TPDN). Bình luận về việc năm 2018 HOSE đã cấp quyết định niêm yết chính thức cho 14 TPDN, nâng khối lượng TPDN được đưa vào giao dịch tăng khoảng 70% so với năm 2017, bà Hồng cho rằng đây là điều rất đáng mừng, vì sẽ giảm áp lực cho NHNN trong việc ung ứng vốn trung, dài hạn, từ đó góp phần thúc đẩy thị trường tài chính phát triển lành mạnh.

Là một trong những người đóng góp xây dựng TTCK từ những ngày đầu, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc CTCK SSI, ông Nguyễn Duy Hưng trăn trở về vấn đề làm sao xây dựng các thể chế giúp TTCK có thể cạnh tranh với NH, làm sao để cân bằng giữa thị trường vốn và tiền tệ, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn.

Để làm được điều đó TTCK phải được NĐT quan tâm. Điều quan trọng, với thị trường là phải minh bạch, với nhà đầu tư (NĐT) phải có niềm tin, có quyền lợi khi tham gia thị trường.

Và để TTCK phát triển song song với NH, phải xây dựng thể chế để cạnh tranh trực tiếp với NH. Quy mô TTCK hiện tại ở mức 3 triệu tỷ đồng, nhưng con số này là vốn hóa thị trường, còn phần tài sản thật thấp hơn rất nhiều. Toàn bộ TPDN hiện khoảng 100.000 tỷ đồng, nhưng chỉ tập trung một số DN như Massan, Vingroup, Hoàng Anh Gia Lai… Và những đối tượng giữ TPDN lại là NH.

Một trong các giải pháp, theo ông Hưng, cần xây dựng các rổ chỉ số linh động hơn, cho phép các định chế tài chính trung gian được tham gia xây dựng chỉ số. Với hàm ý để các tổ chức tự xây dựng chỉ số cung cấp cho NĐT, ông Hưng cho rằng điều này sẽ giúp các chỉ số gắn với thị trường hơn và các sở giao dịch chứng khoán chỉ nên giữ vai trò xét duyệt.

Về NĐT, vấn đề của họ trên TTCK Việt Nam là nhỏ lẻ. Vì vậy cần hướng dòng tiền của họ đến các quỹ đầu tư chỉ số trung gian. Về nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN), ông Hưng nhấn mạnh họ không sợ thua lỗ mà muốn có môi trường đầu tư công bằng và minh bạch; phải làm sao hài hòa được họ. 

Trong khi đó, ông Dominic Scriven, Chủ tịch Dragon Capital, cho biết ở các thị trường phát triển, tỷ trọng NĐT tổ chức tham gia chiếm 50-70%, còn lại là NĐT cá nhân. Tuy nhiên, Việt Nam có tình trạng ngược lại. TTCK thiếu các tổ chức, DN tham gia và bị ảnh hưởng bởi quyết định của NĐT cá nhân, đồng thời cũng gây khó khăn cho các NĐT này, khiến thị trường thiếu ổn định. 

Xem xét lại khái niệm nhà đầu tư nước ngoài

Theo ông Dominic Scriven, cần xem xét các vấn đề liên quan đến tỷ lệ sở hữu của khối ngoại chiếm 80%, những ý kiến bức xúc của NĐTNN, MSCI với chứng khoán Việt Nam và ảnh hưởng đến việc nâng hạng thị trường.

TTCK vẫn là nơi NĐT mua vào, rút ra nhanh để kiếm tiền, nhưng chưa tạo được niềm tin giúp họ thấy rằng TTCK là nơi đầu tư, giữ tiền, tài sản. Đồng thời các DN hiện nay cũng chưa đồng hành cùng NĐT, coi họ là chủ thực sự mà chỉ coi NĐT là nơi hút tiền để làm việc của DN. Đã có nhiều thương vụ xảy ra khi đi huy động vốn ở nước ngoài, một số NĐT phản ánh việc DN sau khi huy động vốn xong không đồng hành và coi họ là máy ATM, thích rút tiền lúc nào thì rút.

Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc SSI 

Một trong những kiến nghị được ông Dominic Scriven nêu ra là Chính phủ cần xem xét lại Điều 23 của Luật Đầu tư, liên quan đến việc DN Việt Nam có sở hữu nước ngoài trên 51% được xem là DN ngoại. Đây là điều không phù hợp, tạo ra cạnh tranh không công bằng cho các DN. Vì thế, điều khoản này cần phải được sửa đổi phục vụ cho nhu cầu đồng bộ hóa pháp luật Việt Nam. 

Về các giải pháp thu hút vốn ngoại khác, ông Dominic Scriven cũng đề xuất có thể cho phép room ngoại tại các tổ chức tín dụng nâng từ 30% lên 49%, trong bối cảnh nhiều NH đang nỗ lực tăng huy động vốn theo Basel II; sớm nghiên cứu và đưa vào loại hình chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết theo mô hình của Thái Lan hoặc Malaysia; thực hiện phương pháp dựng sổ trong việc thoái vốn nhà nước và đẩy mạnh bán vốn nhiều hơn để DN có yếu tố mới trong bộ máy quản trị; giải quyết các vướng mắc còn lại sớm thành lập quỹ hưu trí tự nguyện và mở đường cho loại hình tổ chức khác tham gia thị trường, đồng thời đa dạng sản phẩm đầu tư. 

Theo Thời báo Ngân hàng

Thông tin kinh tế Quốc tế tuần từ 18-23/2/2019

KINH TẾ – TÀI CHÍNH THẾ GIỚI Nội dung
Tăng trưởng – Lạm phát Tăng trưởng

– Mexico: Ngân hàng Trung ương Mexico (Banxico) cho biết, kinh tế nước này trong năm 2018 chỉ tăng trưởng 2,2% và lạm phát vẫn ở mức cao 4,6%, đồng thời dự báo GDP tăng 2,1% trong năm 2019 với lạm phát giảm xuống còn 3,9%. Trong năm 2018, Banxico đã liên tục tăng lãi suất cơ bản để kiềm chế lạm phát nhưng không đạt được mục tiêu đề ra là 3% +/- 1 điểm phần trăm. Hiện lãi suất cơ bản của Mexico đang ở mức cao kỷ lục 8,25%. (Theo TTXVN ngày 16/02)

– Đức: Kinh tế Đức đã tránh được một cuộc suy thoái kỹ thuật trong nửa cuối của năm 2018 khi GDP ghi nhận mức tăng trưởng 0% trong quý IV/2018. Tăng trưởng kinh tế của Đức trong năm 2018 chỉ đạt 1,4%, thấp hơn 0,1% so với dự tính được đưa ra vào tháng 01/2019 và kém xa mức tăng 2,2% của năm 2017 (quý I, II, III và IV tăng trưởng lần lượt 0,4%; 0,5%; 0,2% và 0%).

Đây cũng là mức tăng trưởng yếu nhất của nền kinh tế Đức trong 5 năm qua. Nguyên nhân là do doanh số bán ô tô giảm từ tháng 9/2018, hoạt động vận tải nội địa cũng bị chậm lại; xung đột thương mại kéo dài giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và lo ngại về một Brexit không thỏa thuận. Kinh tế Đức được dự báo tăng trưởng 1% trong năm 2019 và nước này đang phải đối diện với nguy cơ thiếu hụt ngân sách khoảng 25 tỷ EUR vào năm 2023. (Theo Cơ quan Thống kê Liên bang Đức – Destatis ngày 15/02)

– Hoa Kỳ: Trong bối cảnh các nguy cơ mang tính toàn cầu gia tăng, đặc biệt các mối quan hệ thương mại quốc tế căng thẳng, nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn duy trì sự ổn định; tuy nhiên, GDP trong năm 2019 sẽ sụt giảm phần nào so với mức tăng trưởng rõ rệt trong năm 2018 và Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) chưa thể chắc chắn về các bước đi tiếp theo trong bối cảnh rủi ro thương mại toàn cầu đang gia tăng. (Theo FED ngày 20/02)

 Lạm phát

– Anh: Chỉ số CPI 12 tháng tính đến tháng 01/2019 chỉ đạt 1,8%, giảm so với mức 2,1% tại thời điểm tháng 12/2018, ghi dấu lần đầu tiên giảm xuống dưới mức mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) kể từ tháng 01/2017, làm cho mục tiêu lạm phát 2% mà BoE đặt ra càng khó đạt được trong bối cảnh giá năng lượng đang giảm. (Theo Cơ quan Thống kê quốc gia Anh – ONS ngày 13/02)

Chứng khoán – Chứng khoán Hoa Kỳ: Trong tuần từ ngày 18 – 23/02/2019, chỉ số Dow Jones; S&P 500  và Nasdaq Composite tăng lần lượt 0,57%; 0,62% và 0,74% so với chốt phiên giao dịch cuối tuần trước (15/02/2019). Đây là tuần tăng thứ 9 liên tiếp của chỉ số Dow Jones và Nasdaq. Trong ngày giao dịch 22/02/2019:

+ Dow Jones tăng 181,18 điểm (+0,70%) lên 26.031,81 điểm.

+ S&P 500 S&P 500 tăng 17,79 điểm (+0,64%) lên 2.792,67 điểm.

+ Nasdaq Composite tăng 67,84 điểm (+0,91%) lên 7.527,54 điểm.

– Chứng khoán châu Á: Tính chung cả tuần, MSCI châu Á – Thái Bình Dương tăng 2,53 điểm (1,55%). Trong ngày giao dịch cuối tuần (22/02/2018) so với phiên giao dịch hôm trước, các chỉ số:

– Nikkei 225 (Nhật Bản) giảm 38,72 điểm (-0,18%) xuống 21.425,51 điểm.

– Shanghai Composite (Thượng Hải) tăng 52,43 điểm (+1,91%) lên 2.804,23 điểm.

– Hang Seng (Hồng Kông) tăng 186,38 điểm (+0,65%) lên 28.816,30 điểm.

Dầu mỏ Tuần từ ngày 18 – 23/02/2019, giá dầu WTI và Brent tăng lần lượt là 3% và 1,31%. Chốt phiên giao dịch cuối tuần (22/02/2019), giá dầu thô kỳ hạn:

– Dầu WTI của Hoa Kỳ tăng 0,30 USD (+0,52%) lên 57,26 USD/thùng.

– Dầu Brent tăng 0,05 USD (+0,07%) lên 67,12 USD/thùng.

Châu Âu – Châu Âu:

Châu Âu cần bổ sung hơn 100 tỷ USD cho chi tiêu quốc phòng để đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ tài chính đóng góp cho Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Hiện 27 nước châu Âu là thành viên của NATO không hoàn thành nghĩa vụ tài chính năm 2018 đối với NATO (tức dành 2% GDP cho ngân sách quốc phòng), do đó còn thiếu khoảng 102 tỷ USD. Các nước này “buộc phải tăng chi tiêu quốc phòng thêm 38%” mới có thể hoàn thành mục tiêu nói trên. Tổng chi tiêu quốc phòng của 27 nước châu Âu trong năm 2018 là 250 tỷ USD. (Theo Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế – IISS ngày 15/02)

Nhà sản xuất xe lớn nhất châu Âu Volkswagen cho biết, doanh số bán xe trong tháng 01/2019 đã giảm khoảng 1,8% so với cùng kỳ năm 2018 xuống 882.200 chiếc. Tại Trung Quốc, thị trường lớn nhất của Volkswagen đã giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2018; tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương giảm khoảng 3,1%; tại thị trường Bắc Mỹ và Nam Mỹ cũng giảm lần lượt 5,2% và 4,9%. Tuy nhiên, tại thị trường châu Âu tăng 0,5% và tại thị trường Đức cũng tăng 0,7%. (Theo TTXVN ngày 17/02)

– Nga: Tính đến cuối năm 2018 đã có 62 quốc gia trên thế giới áp đặt các biện pháp hạn chế đối với hàng hóa của Nga. Đứng đầu danh sách những nước có số lượng các biện pháp hạn chế đối với sản phẩm có xuất xứ từ Nga là Liên minh châu Âu (25), Ukraine (22), Ấn Độ (16), Belarus (13), Thổ Nhĩ Kỳ (12), Hoa Kỳ (9) và Australia.

Tổng thiệt hại Nga phải chịu khoảng 6,3 tỷ USD, trong đó các biện pháp trừng phạt của Liên minh châu Âu (EU) đã gây thiệt hại lớn nhất đối với hàng hóa xuất khẩu của Nga (hơn 2,4 tỷ USD), tiếp đến là Hoa Kỳ (hơn 1,1 tỷ USD), Ukraine (775 triệu USD), Thổ Nhĩ Kỳ (715 triệu USD)… Công nghiệp luyện kim là ngành chịu thiệt hại nặng nề nhất (khoảng 4 tỷ USD) do các biện pháp trừng phạt kinh tế của phương Tây. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thiệt hại ước tính khoảng 1,1 tỷ USD, hóa chất là 641 triệu USD, ngành công nghiệp ô tô là 306 triệu USD.

Trong năm 2018, Bộ Phát triển kinh tế Nga đã loại bỏ và tự do hóa 32 hạn chế thương mại (bao gồm cả đe dọa áp đặt trừng phạt), tác động tiêu cực đến việc tiếp cận hàng hóa của Nga vào thị trường nước ngoài, mà theo ước tính của giới chuyên gia, thiệt hại vượt quá 330 triệu USD. (Theo Bộ Phát triển kinh tế Nga ngày 18/02)

– Đức: Năm 2018, Đức ghi nhận mức thặng dư tài khoản vãng lai lớn nhất thế giới với 294 tỷ USD nhờ xuất khẩu tăng mạnh; tiếp đến là Nhật Bản với 173 tỷ USD; trong khi Nga xếp ở vị trí thứ ba với 116 tỷ USD.

Tuy nhiên, so với quy mô kinh tế, thặng dư tài khoản vãng lai của Đức trong năm 2018 đã giảm năm thứ ba liên tiếp xuống 7,4% GDP so với mức 7,9% GDP của năm 2017. Kể từ năm 2011, cán cân tài khoản vãng lai của Đức liên tục vượt ngưỡng khuyến nghị 6% GDP của Ủy ban châu Âu (EC) và thặng dư tài khoản vãng lai của nước này từng ghi nhận mức kỷ lục 8,9% GDP trong năm 2015. (Theo Viện Ifo ngày 19/02)

– Anh: Fitch cảnh báo có thể hạ mức đánh giá nợ AA của Vương quốc Anh hiện nay, nếu kinh tế nước này bị tác động mạnh bởi tiến trình đàm phán Anh rời EU vẫn không đạt được thỏa thuận. Kịch bản Brexit không thỏa thuận sẽ dẫn tới sự đổ vỡ đối với triển vọng kinh tế, thương mại của Anh trong ngắn hạn.

Nếu Anh rời EU mà không đạt được thỏa thuận về thương mại, biên giới và các vấn đề khác, nước này sẽ đối mặt với nguy cơ suy thoái. Tuy nhiên, nếu tránh được kịch bản Brexit không thỏa thuận, dự báo đà tăng trưởng của kinh tế Anh sẽ phục hồi lên 1,6% trong năm 2019 và 1,8% vào năm 2020. (Theo TTXVN ngày 21/02)

Châu Á – Hàn Quốc:

+ Hàn Quốc đặt mục tiêu xuất khẩu các “thành phố thông minh” sau khi hoàn thành xây dựng hai thành phố thử nghiệm. Theo kế hoạch, Chính phủ Hàn Quốc sẽ chi 3.700 tỷ KRW (khoảng 3,3 tỷ USD) để hoàn thành xây dựng thành phố thông minh đầu tiên trước cuối năm 2021.

Các công nghệ mới nhất và tiên tiến nhất sẽ được sử dụng để thu thập dữ liệu và cung cấp thông tin giúp điều hành thành phố tốt hơn và cho phép giới chức cũng như cư dân sử dụng thời gian và các nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Những người sống ở các thành phố thông minh sẽ tiết kiệm 124 giờ/năm trong việc đi lại, đợi làm các thủ tục hành chính hay chờ xếp hàng tại bệnh viện. (Theo Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in ngày 13/02)

Quy mô thương mại giữa Hàn Quốc và EU trong năm 2018 vượt ngưỡng 100 tỷ EUR. Đây là năm thứ hai liên tiếp vượt ngưỡng 100 tỷ EUR, sau khi đạt 101,8 tỷ EUR vào năm 2017. Trong năm 2018, Hàn Quốc xuất khẩu sang EU số hàng hóa trị giá 51 tỷ EUR, nhập khẩu 49,2 tỷ EUR, tổng quy mô thương mại đạt 100,2 tỷ EUR (Theo Cơ quan Thống kê châu Âu – Eurostat).

Quy mô thương mại năm 2018 giảm 1,6% so với năm 2017, trong đó xuất khẩu giảm 1,4% và nhập khẩu giảm 1,8%. Song thặng dư cán cân thương mại đã tăng từ 1,6 tỷ EUR năm 2017 lên 1,9 tỷ EUR do nhập khẩu giảm nhiều hơn xuất khẩu. Hàn Quốc tiếp tục duy trì vị trí đối tác thương mại lớn thứ 8 của EU, sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Thụy Sĩ, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản và Na Uy. (Theo Đài phát thanh và truyền hình Hàn Quốc ngày 19/02)

Hàn Quốc xếp ở vị trí thứ 5 trong 6 nước đi đầu về công nghệ thông minh trên thế giới. Nếu lấy Hoa Kỳ là nước đi đầu về công nghệ làm tiêu chuẩn với 100%, trình độ công nghệ của Đức đạt 93,4% (kém 0,4 năm), Nhật Bản là 79,9% (kém 1,5 năm), EU 79,6% (1,5 năm), Hàn Quốc 72,3% (kém 2,5 năm), Trung Quốc là 66% (kém 3,1 năm).

Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc (MOTIE) đã tiến hành đánh giá trình độ công nghệ của sáu nước lớn ở bảy lĩnh vực với 25 công nghệ cụ thể, thông qua kết quả điều tra của các chuyên gia và phân tích về bản quyền luận văn nghiên cứu.

Hàn Quốc thuộc nhóm đi đầu công nghệ (đạt trên 80% so với tiêu chuẩn tối đa) ở hai lĩnh vực là hệ thống viễn thông và hệ thống vận hành nhà máy. Trong số 25 hạng mục cụ thể, Hàn Quốc sở hữu công nghệ cao nhất ở hạng mục viễn thông Internet. Hoa Kỳ sở hữu công nghệ cao nhất ở sáu lĩnh vực, Đức đứng đầu ở lĩnh vực hệ thống điều khiển. (Theo MOTIEngày 20/02)

– Triều Tiên: Trong tháng 12/2018, Nga xuất khẩu gần 6.983 tấn dầu tinh luyện sang Triều Tiên. Đây là lượng dầu tinh luyện xuất khẩu sang Triều Tiên hằng tháng lớn nhất kể từ năm 2017. Trung Quốc cũng đã vận chuyển 1.511 tấn dầu tinh luyện sang Triều Tiên.

Như vậy, Nga và Trung Quốc đã vận chuyển tổng cộng 48.441 tấn dầu tinh luyện sang Triều Tiên trong năm 2018. Sau khi Triều Tiên tiến hành một vụ phóng tên lửa tầm xa năm 2017, Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 2397, theo đó đặt mức trần đối với dầu tinh chế được phép xuất khẩu sang Triều Tiên là 500.000 thùng/năm, tương đương khoảng 60.000 – 65.000 tấn. (Theo Liên Hợp quốc ngày 15/02)

– Ấn Độ: Một ngày sau khi hủy bỏ quy chế Tối huệ quốc dành cho Pakistan, ngày 16/02, Ấn Độ đã áp thuế nhập khẩu 200% đối với tất cả các hàng hóa bắt nguồn hoặc nhập khẩu từ Pakistan. Quyết định trên của Chính phủ Ấn Độ là một phần của gói biện pháp trả đũa nhằm vào nước láng giềng, sau vụ 49 thành viên Lực lượng cảnh sát dự bị Trung ương Ấn Độ (CRPF) bị thiệt mạng trong vụ tấn công khủng bố ở bang Jammu và Kashmir.

Trước đó ngày 15/02, Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ Arun Jaitley tuyên bố nước này sẽ rút quy chế Tối huệ quốc dành cho Pakistan với hiệu lực tức thì sau vụ tấn công khủng bố trên. Ấn Độ áp dụng quy chế Tối huệ quốc với tất cả các thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) theo Điều 1 của Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại (GATT) năm 1994.

(Theo Hãng tin IANS 17/01)

– Thái Lan: Tính đến thời điểm nửa cuối tháng 02/2019, đồng THB của Thái Lan đã tăng giá 4% so với đồng USD và sẽ lấy lại vị trí của một trong những đồng tiền tăng giá nhanh nhất châu Á. Nguyên nhân được cho là do những thông tin về tình hình kinh tế khả quan của Thái Lan được công bố ngày 18/02. (Theo TTXVN ngày 20/02)

Hoa Kỳ Ngành chế tạo Hoa Kỳ trong tháng 01/2019 đã giảm 0,9% so với tháng 12/2018, phần lớn do sự sụt giảm trong hoạt động lắp ráp ô tô. Số liệu trên đã kéo sản lượng công nghiệp của Hoa Kỳ giảm 0,6% trong tháng 01/2019, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 5/2018. (Theo Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ – FED ngày 15/02)

Theo nhà phân tích Ian Shepherdson của Pantheon Macroeconomics, ngành chế tạo Hoa Kỳ đang đứng trước sức ép thực sự đến từ sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc và căng thẳng thương mại. Dự kiến sản lượng chế tạo của Hoa Kỳ sẽ suy giảm trong nửa đầu năm 2019, đẩy lĩnh vực này rơi vào tình trạng “suy thoái nhẹ”.

Thâm hụt ngân sách nước này trong tháng 12/2018 giảm 40% so với cùng kỳ năm 2017 xuống 13,5 tỷ USD, nhưng thâm hụt trong quý IV/2018 đã tăng 41,8% so với cùng kỳ năm 2017 lên 318,9 tỷ USD. Tổng chi ngân sách trong tháng 12/2018 giảm 4% với cùng kỳ năm 2017, trong khi thu ngân sách giảm 6,6%. Giới phân tích cho rằng chương trình cắt giảm thuế trị giá 1.500 tỷ USD cũng như chi tiêu chính phủ ngày một tăng làm cho thâm hụt ngân sách và nợ công của Hoa Kỳ tăng mạnh. (Theo Bộ Tài chính Hoa Kỳ ngày 13/02)
Nợ công của Hoa Kỳ lần đầu tiên trong lịch sử vượt ngưỡng 22.000 tỷ USD, đạt 22.010 tỷ USD, tương đương GDP của ba nền kinh tế lớn là Trung Quốc, Nhật Bản và Đức cộng lại. Con số này tăng đáng kể so với mức 19.950 tỷ USD vào thời điểm Tổng thống Donald Trump nhậm chức ngày 20/01/2017.

Văn phòng Ngân sách Quốc hội Hoa Kỳ (CBO) cũng cảnh báo quy mô nợ công của Hoa Kỳ có thể chạm mức 100% GDP vào cuối thập kỷ tới và tăng lên 152% GDP vào năm 2048, mức cao nhất trong lịch sử nước này. (Theo Bộ Tài chính Hoa Kỳ ngày 12/02)

Trung Quốc Trung Quốc sẽ thu hút lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2019, trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục mở rộng tiếp cận cho doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường vốn của nước này. Trong năm 2018, thị trường vốn của Trung Quốc đã tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài cao kỷ lục 120 tỷ USD.

Dự báo nguồn vốn nước ngoài trị giá 200 tỷ USD sẽ chảy vào thị trường vốn Trung Quốc trong năm 2019. Bên cạnh đó, Báo cáo của Morgan Stanley cho biết, thị trường cổ phiếu loại A của Trung Quốc sẽ thu hút khoảng 70 – 125 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2019, trong khi trái phiếu doanh nghiệp sẽ chứng kiến dòng vốn đổ vào khoảng 300 – 400 tỷ USD trong năm 2030. (Theo Tờ China Securities News ngày 18/02)

Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng 15,2 tỷ USD trong tháng 01/2019 lên 3.088 tỷ USD, cao hơn so với mức tăng 11 tỷ USD hồi tháng 12/2018, cũng như vượt mức dự báo 9,3 tỷ USD của giới chuyên gia.

Nguyên nhân là do đồng CNY tăng giá trước những kỳ vọng về tiến triển trong các cuộc đàm phán thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, với mức tăng 2,6% so với đồng USD trong tháng 01/2019. Bên cạnh đó, giá trị dự trữ vàng của Trung Quốc đã tăng từ 76,331 tỷ USD vào cuối tháng 12/2018 lên 79,319 tỷ USD trong tháng 01/2019. (Theo Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc – PboC ngày 12/02)

Trung Quốc hiện vẫn là nước nắm giữ trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ lớn nhất. Tính đến tháng 12/2018, số lượng trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà Trung Quốc nắm giữ là 1,123 nghìn tỷ USD.

Trong tháng trước đó, Trung Quốc sở hữu số lượng trái phiếu trị giá 1,121 nghìn tỷ USD, giảm 17,5 tỷ USD so với tháng 10/2018. Trong khi đó, số lượng trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà Nhật Bản nắm giữ đã trị giá 1,042 nghìn tỷ USD trong tháng 12/2018, tăng so với mức 1,036 nghìn tỷ USD hồi tháng 11/2018. Như vậy, tổng cộng cả Nhật Bản và Trung Quốc đang nắm giữ hơn 1/3 tổng số lượng trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ do nước ngoài sở hữu. (Theo Bộ Tài chính Hoa Kỳ 15/02)

Thị trường ô tô của nước này vẫn ảm đạm trong tháng 01/2019, với doanh số bán giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2018. Doanh số bán ô tô tại thị trường Trung Quốc trong tháng 01/2019 chỉ đạt 2,367 triệu chiếc, giảm 15,8% so với cùng kỳ năm 2018, trong khi sản lượng ô tô đạt 2,365 triệu chiếc, giảm 12,1%.

Doanh số bán xe hơi sẽ tiếp tục xu hướng đi xuống trong tháng 2, chủ yếu do kinh tế chậm lại và nhu cầu suy giảm tại các thành phố nhỏ. Trước đó, Hiệp hội các nhà chế tạo ô tô Trung Quốc (CAAM) dự báo doanh số bán xe tại Trung Quốc sẽ đạt 28 triệu chiếc trong năm 2019, tương đương với con số của năm 2018, trong khi các cơ quan khác và Chính phủ Trung Quốc dự báo doanh số tăng từ 0 – 2%. (Theo CAAM ngày 18/02)

Venezuela Venezuela đã thiệt hại trực tiếp khoảng 38 tỷ USD trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa, dịch vụ và khai thác dầu mỏ trong 3 năm qua, do ảnh hưởng từ các biện pháp trừng phạt kinh tế, tài chính của Hoa Kỳ.

Trong đó, Venezuela đã tổn thất 23 tỷ USD GDP và 15 tỷ USD liên quan tới hoạt động của chi nhánh Tập đoàn Dầu khí quốc gia (PDVSA) tại Hoa Kỳ, Citgo. Nếu cộng thêm cả 20 tỷ USD thiệt hại trong vụ phá hoại ngành dầu khí xảy ra năm 2002, Venezuela đã mất gần 60 tỷ USD trong những năm qua. (Theo Phó Tổng thống Venezuela Ricardo Menendez ngày 18/02)

Đàm phán – Ký kết Ấn Độ và Hoa Kỳ

Tập đoàn dầu khí Ấn Độ (IOC) đã ký một thỏa thuận mua 3 triệu tấn dầu thô mỗi năm từ Hoa Kỳ trị giá 1,5 tỷ USD. Đây là lần đầu tiên một công ty dầu khí Ấn Độ nhập dầu thô từ Hoa Kỳ và thỏa thuận sẽ được thực hiện từ đầu năm tài khóa 2019 – 2020 (bắt đầu vào ngày 01/4/2019).

Việc Ấn Độ tăng cường mua dầu từ các công ty dầu mỏ Hoa Kỳ diễn ra trong bối cảnh Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Iran. Quyết định của Hoa Kỳ làm cho Ấn Độ phải cắt giảm mua dầu từ Iran, đẩy Iran từ vị trí nhà cung cấp dầu lớn thứ ba của Ấn Độ tại thời điểm Hoa Kỳ đưa ra lệnh trừng phạt xuống vị trí thứ 7 tại thời điểm tháng 01/2019. (Theo Hãng thông tấn PTI ngày 18/02)

Thông tin Kinh tế trong nước tuần từ 18 – 23/2/2019

KINH TẾ – TÀI CHÍNH VIỆT NAM Nội dung
Tổng cung  
Tăng trưởng Quỹ Di sản – Heritage – vừa công bố báo cáo Chỉ số tự do kinh tế năm 2019, trong đó Việt Nam được tăng 2 điểm so với năm ngoái, đạt 55,3 điểm, xếp hạng thứ 128 trên thế giới. Nguyên nhân của sự gia tăng này là nhờ sức khỏe tài khóa, tự do đầu tư và môi trường pháp lý. Một số chỉ số thành phần được cải thiện như chỉ số tự do kinh doanh tăng 0,3 điểm; chỉ số tự do lao động tăng 2,4 điểm; tuy nhiên chỉ số tự do tiền tệ lại giảm 6,5 điểm.(Theo enternews.vn ngày 21/02)
Sản xuất công nghiệp Tính đến 15 giờ ngày 15/02/2019, Quỹ bình ổn giá xăng dầu của Petrolimex còn 1.720 tỷ đồng, giảm 220 tỷ đồng so với thời điểm điều chỉnh giá xăng dầu trước đó vào ngày 31/01/2019. Sau khi trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, giá xăng dầu các loại vẫn được giữ nguyên như thời điểm điều chỉnh vào ngày 31/01/2019. Cụ thể: Xăng RON 95-IV là 17.750 đồng/lít; xăng RON 95-III là 17.600 đồng/lít; xăng E5 RON 92 là 16.270 đồng/lít. Dầu diesel tiêu chuẩn euro 5 là 15.100 đồng/lít. Dầu hỏa là 14.180 đồng/lít.
Ngày 19/02, làm việc với một số bộ, ngành về tình hình giá gạo giảm so với cùng kỳ năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhất trí với kiến nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, Bộ Tài chính tập trung triển khai mua dự trữ quốc gia năm 2019 với số lượng 80.000 tấn thóc và 200.000 tấn gạo, sẵn sàng mua 100.000 tấn tiếp theo để thực hiện Nghị định số 75/2015/NĐ-CP về cơ chế chính sách bảo vệ và phát triển rừng gắn với chính sách giảm nghèo nhanh bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 – 2020 và các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. (Theo sggp.org.vn ngày 19/02)
Doanh nghiệp Giá trị thương hiệu của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) đã tăng 64%, từ 381 triệu USD (năm 2018) lên trên 625 triệu USD năm 2019, tăng 68 bậc, lên hạng 242 – thứ hạng cao nhất trong các ngân hàng Việt Nam và đưa VietinBank trở thành ngân hàng Việt Nam đầu tiên, duy nhất lọt vào Top 300 thương hiệu ngân hàng giá trị nhất thế giới theo báo cáo xếp hạng năm 2019 của Brand Finance. VietinBank cũng giữ vững vị trí trong Top 20 ngân hàng thế giới thăng hạng mạnh nhất (xếp thứ 8). Chỉ số sức mạnh thương hiệu của VietinBank được Brand Finance đánh giá tăng từ 67 lên 77,33 trong thang điểm 100, xếp hạng thương hiệu tăng từ AA- (năm 2018) lên AA+. (Theo bnews.vn ngày 18/02)
Trong tháng 01/2019, doanh số bán xe ô tô toàn thị trường đạt 33.484 xe, giảm 2% so với tháng 12/2018 và tăng 27% so với tháng 1/2018. Trong đó, doanh số bán xe du lịch đạt 27.396 xe, tăng 14%; xe thương mại đạt 5.755 xe, giảm 41%; xe chuyên dụng đạt 333 xe, giảm 34% so với tháng trước. Theo xuất xứ, doanh số bán xe sản xuất lắp ráp trong nước đạt 18.799 xe, giảm 12%; xe nhập khẩu nguyên chiếc đạt 14.685 xe, tăng 14% so với tháng trước. (Theo Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam – VAMA ngày 20/02)
Bộ Công Thương vừa ban hành khung giá phát điện năm 2019 áp dụng cho đàm phán giá hợp đồng mua bán điện của các nhà máy điện. Cụ thể, đối với nhà máy nhiệt điện than, mức trần của khung giá phát điện (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, chi phí cảng biển và cơ sở hạ tầng dùng chung) áp dụng cho than nhập khẩu công suất tinh 1×600 MW là 1.896,05 đồng/kWh.

Mức trần của nhà máy điện chuẩn có công suất tinh 2x600MW là 1.677,02 đồng/kWh. Đối với nhà máy thủy điện, mức trần của khung giá điện (chưa bao gồm thuế tài nguyên nước, tiền phí dịch vụ môi trường rừng, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước và thuế giá trị gia tăng) là 1.110 đồng/kWh. (Theo Thoibaotaichinh.vn ngày 20/02)

Năm 2019, Tổng cục Thuế sẽ tiến hành thanh tra thuế 7.157 doanh nghiệp, giảm 70 doanh nghiệp so với chỉ tiêu giao năm 2018 (7.227 doanh nghiệp) và kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế 79.941 cuộc, giảm 1.973 cuộc (81.914 cuộc). Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là có số lượng doanh nghiệp thanh kiểm tra thuế lớn nhất.

Riêng Cục Thuế Hà Nội được giao kế hoạch thanh tra 1.331 doanh nghiệp và 15.303 cuộc kiểm tra. Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thanh tra 1.246 doanh nghiệp và có nhiệm vụ kiểm tra 22.422 cuộc. Một số tỉnh có điều tiết về ngân sách trung ương được giao nhiệm vụ kiểm tra trung bình từ trên 1.000 cuộc đến trên 2.800 cuộc. (Tổng cục Thuế ngày 19/02)

Cả nước có hơn 9.600 doanh nghiệp hoạt động gia công, nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Mặc dù về số lượng, các doanh nghiệp này chỉ chiếm tỷ trọng 11,2% (trên tổng số hơn 85.600 doanh nghiệp xuất – nhập khẩu) nhưng về kim ngạch lại chiếm trên 55,28% kim ngạch nhập khẩu và 64,87% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2018, xuất siêu của Việt Nam đạt 7,2 tỷ USD, tuy nhiên lĩnh vực gia công, sản xuất hàng xuất khẩu xuất siêu 65,35 tỷ USD (xuất 222,24 tỷ USD, nhập khẩu 156,89 tỷ USD). (Báo haiquan.vn ngày 20/02 dẫn thông tin từ Tổng cục Hải quan)
Tổng cầu
Đầu tư Trong nỗ lực triển khai Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020, trước mắt, Chính phủ sẽ triển khai đầu tư 11 dự án với tổng chiều dài 654 km, đi qua địa phận 13 tỉnh. Tổng mức đầu tư khoảng 118.716 tỷ đồng, trong đó có 3 dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, 8 dự án đầu tư theo hình thức PPP. Giai đoạn này sẽ có gần 5.000 héc-ta đất bị thu hồi, khoảng 3.700 hộ dân phải tái định cư. (Theo saigondautu.com.vn ngày 22/02)
Xuất nhập khẩu Xuất khẩu gạo đầu năm 2019 đã lao dốc mạnh, làm cho giá lúa, gạo ở thị trường nội địa cũng sụt giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện giá lúa thường chỉ còn 4.300 đồng/kg, giảm khoảng 300 đồng/kg so với trước Tết. Dù bị thương lái ép giá nhưng nông dân bắt buộc bán lúa vì không có nơi cất trữ. Kết thúc năm 2018, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt gần 7 triệu tấn, cao nhất kể từ năm 2016 và tăng gần 400.000 tấn so với năm 2017, tuy nhiên, bước sang năm 2019, xuất khẩu gạo đã quay đầu sụt giảm mạnh. (Báo congthuong.vn ngày 18/02 dẫn thông tin từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam – VFA)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự báo nhu cầu nhập khẩu gạo của Việt Nam tại các thị trường truyền thống sẽ tăng nhẹ trong quý I/2019. Philippines có nhu cầu nhập khẩu 1 triệu tấn gạo, trong đó có nhiều đơn hàng gạo Việt Nam. Thuế nhập khẩu gạo ở mức 35% nếu có nguồn gốc từ khu vực ASEAN và 50% với các nước ngoài ASEAN. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc sẽ gặp nhiều thách thức do các chính sách tăng thuế đối với mặt hàng gạo, thắt chặt nhập khẩu tiểu ngạch, yêu cầu mới về truy xuất nguồn gốc xuất xứ sản phẩm. (Theo Vov.vn ngày 17/02)
Năm 2019, ngành sản xuất, chế biến tôm đặt mục tiêu giá trị xuất khẩu đạt 4,2 tỷ USD, góp phần giúp kim ngạch xuất khẩu toàn ngành thủy sản đạt mục tiêu 10 tỷ USD và hướng tới mục tiêu đạt 4,5 tỷ USD từ xuất khẩu tôm vào năm 2020. Để đảm bảo mục tiêu này, diện tích nuôi tôm sú được duy trì khoảng 620.000ha, với sản lượng khoảng 330.000 tấn. Sản lượng và giá trị xuất khẩu tôm thẻ chân trắng dự kiến đạt khoảng 530.000 tấn. Năm 2018, xuất khẩu tôm giảm gần 8%, chỉ đạt 3,55 tỷ USD.
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tháng 01/2019 khởi sắc với kim ngạch đạt hơn 5,151 tỷ USD, tăng 42,1% so với cùng kỳ 2018. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ gấp 4,7 lần tốc độ bình quân chung cả nước. Trong tháng 1, Việt Nam nhập khẩu 1,076 tỷ USD từ thị trường Hoa Kỳ. Như vậy, tháng 1 Việt Nam xuất siêu hơn 4 tỷ USD sang Hoa Kỳ. (Theo Tổng cục Hải quan ngày 19/02)
Tháng 01/2019, tổng trị giá xuất – nhập khẩu cả nước đạt hơn 43 tỷ USD. Trong đó, trị giá kim ngạch xuất khẩu đạt 22,076 tỷ USD và nhập khẩu đạt 21,26 tỷ USD. Như vậy, cán cân thương mại của cả nước thặng dư 816 triệu USD (trước đó Tổng cục Thống kê ước tính cán cân thương mại tháng 1 thâm hụt khoảng 800 triệu USD). Ước tính, nếu tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu của cả nước tăng bình quân 5% trong năm 2019, đến đầu tháng 12/2019, kim ngạch xuất – nhập khẩu của Việt Nam sẽ đạt kỷ lục mới 500 tỷ USD. (Tổng cục Hải quan ngày 18/02)
Năm 2019, tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm gỗ vẫn tiếp tục được duy trì ở mức hai con số và có thể đạt mục tiêu đề ra là 10,5 tỷ USD. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ đạt hơn 8,9 tỷ USD (không tính các mặt hàng lâm sản ngoài gỗ), tăng 14,5% so với năm 2017. Nguyên liệu cho chế biến gỗ trong nước đã chiếm 75%. Các doanh nghiệp trong nước chiếm 53% tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ. (Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam ngày 21/02)
Trong nửa đầu tháng 2, tổng trị giá xuất khẩu cả nước đạt 4,246 tỷ USD, trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 6,332 tỷ USD, đưa giá trị nhập siêu tăng lên mức 2,086 tỷ USD. Lũy kế đến ngày 15/02, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 26,319 tỷ USD, nhập khẩu đạt 27,596 tỷ USD tỷ USD, giá trị nhập siêu gần 1,3 tỷ USD. (Theo Tổng cục Hải quan ngày 21/02)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa công bố số liệu mới nhất cho biết, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 01/2019 ước đạt 644 triệu USD, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, xuất khẩu cá tra ước đạt 165 triệu USD, giảm 4,4%; tôm các loại ước đạt 260 triệu USD, giảm 2,2%. Đáng chú ý, tại đồng bằng sông Cửu Lon, giá cá tra loại I chững lại ở mức 29.000 – 29.500 đồng/kg. (Theo baohaiquan.vn ngày 21/02)
Cân đối vĩ mô
Giá vàng Trong tuần qua, giá vàng có 3 ngày tăng giá, 3 ngày giảm giá. Trong phiên giao dịch ngày 23/02 so với ngày 22/02, giá vàng miếng SJC được niêm yết tại một số doanh nghiệp kinh doanh vàng:

– Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn: 36,90 – 37,1 triệu đồng/lượng, tăng 80 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua vào và bán ra.

– Công ty Doji: 36,97 – 37,09 triệu đồng/lượng, tăng 110 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều.

Tỷ giá Tính chung tuần qua, tỷ giá trung tâm giảm 9 đồng so với tuần trước với 2 ngày tăng giá, 3 ngày giảm giá và 1 ngày không thay đổi. Trong phiên giao dịch ngày 23/02, tỷ giá trung tâm là 22.906 VND/USD, không thay đổi so với tỷ giá ngày 22/02; tỷ giá USD tại một số ngân hàng thương mại tăng nhẹ so với ngày 22/02 như sau:

– Vietcombank và Techcombank: 23.165-23.265 VND/USD, tăng 5 đồng ở cả hai chiều mua và bán.

– BIDV: 23.160-23.260 VND/USD, tăng 5 đồng ở mỗi chiều.

Tín dụng Trong tuần 11 – 15/02, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hút ròng 51.558 tỷ đồng khi có tới 65.354 tỷ đồng OMO đến hạn. Khối lượng OMO lưu hành giảm liên tục từ mức hơn 150 nghìn tỷ đồng về 101 nghìn tỷ đồng. Kênh tín phiếu vẫn không phát sinh giao dịch và duy trì số dư bằng 0. Lãi suất liên ngân hàng giảm ở tất cả các kỳ hạn, lãi suất qua đêm là 4,52%/năm, lãi suất 1 tuần 4,64%. Chênh lệch lãi suất VND -USD có xu hướng thu hẹp nhưng vẫn duy trì ở mức 1,8 – 2%. (Theo Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn ngày 18/02)
Thị trường tài sản
Cổ phiếu Trong tuần từ ngày 18/02 – 22/02/2019:

– VN-Index có 5 ngày tăng điểm. Chốt tuần, VN-Index tăng 1,34 điểm (+0,14%) lên 988,91 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 198,34 triệu đơn vị/ngày, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 4.589,76 triệu đơn vị/ngày.

– HNX-Index có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, HNX-Index tăng 0,7 điểm (+0,66%) lên 106,82 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 35,39 triệu đơn vị/phiên, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 491,22 triệu đơn vị/ngày.

– Upcom-Index có 4 ngày tăng điểm và 1 ngày giảm điểm. Chốt tuần, Upcom-Index tăng nhẹ 0,02 điểm (+0,03%) lên 55,55 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 12,462 triệu đơn vị/ngày, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 258,178 tỷ đồng/ngày.

Trong tuần qua, khối ngoại đã bán ròng 17,76 triệu đơn vị (tuần trước mua ròng 37,63 triệu đơn vị). Tuy nhiên, xét về giá trị, họ vẫn mua ròng 45,24 tỷ đồng, giảm mạnh so với giá trị mua ròng của tuần trước (1.875,89 tỷ đồng).

– HOSE: Khối ngoại thực hiện 4 phiên mua ròng và bán ròng duy nhất 1 phiên ngày đầu tuần 18/2. Tổng cộng, khối ngoại đã mua ròng 8,26 triệu đơn vị, giảm 78,54% so với tuần trước. Tổng giá trị mua ròng tương ứng 540,47 tỷ đồng, giảm mạnh hơn 71% so với tuần trước đó (mua ròng 1.867,58 tỷ đồng).

– HNX: Khối ngoại thực hiện 5 phiên mua ròng liên tiếp với tổng khối lượng 1,98 triệu đơn vị,  tổng giá trị 55,41 tỷ đồng (tuần trước đó đã bán ròng 1,92 triệu đơn vị, tổng giá trị mua ròng 0,36 tỷ đồng).

– UPCoM: Khối ngoại mua ròng 3 phiên và bán ròng 2 phiên. Tổng cộng, khối ngoại đã bán ròng gần 28 triệu đơn vị với tổng giá trị tương ứng 550,64 tỷ đồng (tuần trước đó mua ròng 1,09 triệu đơn vị, tổng giá trị mua ròng 7,95 tỷ đồng).

Bất động sản Trong năm 2019, Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu phát triển thêm 8 triệu m2 sàn xây dựng nhà ở, nâng tổng diện tích sàn nhà ở trên địa bàn lên 178,25 triệu m2 và diện tích nhà ở bình quân đầu người vào cuối năm 2019 lên 19,81 m2/người. Trong năm 2018, thành phố đã phát triển tăng thêm 11,52 triệu m2 sàn nhà ở, nâng tổng diện tích nhà ở trên địa bàn lên 173,77 triệu m2, diện tích nhà ở bình quân là 19,75 m2/người. (Theo tinnhanhchungkhoan ngày 20/02)
Việc phát triển nhà ở xã hội mới đạt được 33% so với mục tiêu phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và cần hơn 12 triệu m2 nhà ở xã hội nữa. Hiện nay, cả nước đã hoàn thành đầu tư xây dựng 198 dự án nhà ở xã hội, với quy mô xây dựng hơn 81.700 căn hộ, tương đương khoảng 4,1 triệu m2.

Trong đó, Chương trình phát triển nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị đã hoàn thành 98 dự án, có quy mô hơn 40.700 căn hộ. Chương trình phát triển nhà ở xã hội dành cho công nhân khu công nghiệp có 100 dự án hoàn thành với quy mô hơn 41.000 căn hộ. Nhà ở cho học sinh, sinh viên có 89 dự án nhà hoàn thành, đạt tỷ lệ bình quân 82%. (Theo Bộ Xây dựng ngày 21/02)

Chính sách Quyết định 146/QĐ-TTg

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 01/02/2019 phê duyệt Đề án thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát với 3 mục tiêu chính là:

Đánh giá kết quả sản xuất – kinh doanh của khu vực kinh tế chưa được quan sát nhằm phản ánh đầy đủ, toàn diện hơn phạm vi, quy mô của nền kinh tế; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ thống kê nói chung và nghiệp vụ biên soạn tài khoản quốc gia nói riêng, từng bước tiếp cận các chuẩn mực, thông lệ thống kê quốc tế và góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế.

Theo đề án, khu vực kinh tế chưa được quan sát bao gồm: Kinh tế ngầm; kinh tế bất hợp pháp; kinh tế phi chính thức; kinh tế tự sản, tự tiêu của hộ gia đình; hoạt động kinh tế bị bỏ sót. Số liệu kinh tế khu vực này sẽ bắt đầu được đo lường chính thức từ năm 2020.

Quyết định có hiệu lực từ ngày có hiệu lực kể từ ngày ký.

Nhận định

chuyên gia

Ông Đàm Thế Thái, Phó Tổng giám đốc Công ty tài chính tiêu dùng HD Saison (infomoney.vnngày 17/02):

Thị trường tài chính tiêu dùng năm 2019 vẫn theo xu hướng tăng trưởng mạnh. Nhu cầu vay tiêu dùng tại Việt Nam còn rất lớn, do độ thâm nhập của các tổ chức tín dụng chưa cao, nhất là ở vùng nông thôn. Tỷ lệ mua hàng trả góp chỉ khoảng 20 – 25%, nên dư địa còn rất lớn. Nhu cầu mua mới và nâng cấp xe máy, điện thoại, điện máy gia dụng, đồ gỗ nội thất… của người dân sẽ tiếp tục tăng mạnh trong nhiều năm nữa, nên đây sẽ vẫn là sản phẩm chủ lực của các công ty tài chính.

Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (18/02):

Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2018 đạt kết quả tích cực, dự trữ ngoại hối gia tăng mạnh giúp giải tỏa áp lực với tỷ giá, thị trường tiền tệ ổn đinh, lãi suất huy động các tháng tới có thể được duy trì ổn định ở mức hiện tại, thậm chí có thể giảm. Tuy vậy, các rủi ro từ diễn biến quốc tế vẫn còn và có thể thay đổi cục diện rất nhanh.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia ngân hàng (21/02):

Sức ép lên VND trong năm 2019 không quá lớn, nhờ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước được củng cố và duy trì ở mức khá. Giá USD nhiều khả năng sẽ giảm nhẹ trong năm 2019 khi Fed giãn thời gian tăng lãi suất. Ngoài ra, cán cân thương mại tiếp tục thặng dư 7,2 tỷ USD trong năm 2018 sẽ tạo thêm dư địa cho ổn định tỷ giá tại Việt Nam.

Vòng tuần hoàn tín dụng tăng nhanh

Năm 2019, NHNN Việt Nam định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 13%, tín dụng tăng khoảng 14% là hoàn toàn hợp lý, nó vừa dựa trên kết quả tăng trưởng tín dụng trong năm 2018 vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong năm 2019 lấy ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, cũng như các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ.

Trả lời phỏng vấn Thời báo Ngân hàng về vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế TP.HCM, ông Tô Duy Lâm – Giám đốc NHNN TP.HCM cho biết: Phân tích đánh giá về khả năng đáp ứng vốn cho nền kinh tế và vai trò của tín dụng đối với phát triển kinh tế – xã hội TP.HCM trong năm 2018, phản ánh trên 4 phương diện sau:

Thứ nhất, tín dụng trên địa bàn TP.HCM tăng trưởng hợp lý (16%), phù hợp với định hướng của NHNN. Đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng, DN hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực: xuất khẩu, thương mại du lịch và đầu tư, nông nghiệp nông thôn, DNNVV.

Thứ hai, thị trường tiền tệ ổn định, lãi suất, tỷ giá không biến động và ở mức hợp lý phù hợp cung cầu thị trường và theo định hướng điều hành của NHNN, góp phần quan trọng trong việc giữ ổn định vĩ mô, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, tín dụng vẫn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, chiếm khoảng 75% tổng dư nợ. Trong đó tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển, có xu hướng tăng trưởng tốt như: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; Ngành xây dựng; Ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động có khác…

Thứ tư, chất lượng tín dụng cải thiện hơn so với những năm trước đây, tính đến cuối năm 2018 tỷ lệ nợ xấu trên địa bàn còn 2,9% trong tổng dư nợ.

Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2018 thấp hơn so với mọi năm có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp, thưa ông?

Như đã nói ở trên tín dụng đã và đang dần ổn định và tập trung vào sản xuất kinh doanh theo đúng định hướng của NHNN. Tuy nhiên về mặt chỉ số cụ thể tín dụng trong hai năm gần đây đều tăng thấp hơn so với định hướng đề ra, như năm 2018 đầu năm NHNN định hướng toàn hệ thống tăng 17% nhưng đến cuối năm tăng gần 14%.

Ở góc nhìn quản lý đây là xu hướng tích cực xuất phát từ hai yếu tố chính, vốn tín dụng cùng với các nguồn vốn khác trong nền kinh tế, như vốn qua thị trường chứng khoán, vốn của doanh nghiệp, vốn cá nhân, vốn ngân sách… vừa qua đã được khai thác và sử dụng hiệu quả, điều này đã giảm áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng.

Song, vốn tín dụng ngân hàng đã chuyển dịch theo ngành, lĩnh vực kinh tế, phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế thành phố. Đồng thời mở rộng tín dụng vào các ngành chế biến và chế tạo, dịch vụ… đây là những ngành có động lực cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Trong đó, một điểm đáng lưu ý là vòng tuần hoàn tín dụng trong năm qua đã nhanh hơn các năm trước đó.

Theo thống kê của các NHTM, tín dụng trong năm 2018 tăng thấp nhưng doanh số cho vay của các NHTM lại tăng cao. Ví dụ, một đồng vốn cho vay ra của BIDV năm 2017 quay được 3 vòng thì năm 2018 cũng một đồng vốn cho vay ra đã quay được 4 vòng, điều này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đang tăng lên.

Năm 2019, NHNN Việt Nam định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 13%, tín dụng tăng khoảng 14%, ông đánh giá như thế nào?

Chỉ số này theo tôi hoàn toàn hợp lý, nó vừa dựa trên kết quả tăng trưởng tín dụng trong năm 2018 vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong năm 2019 lấy ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, cũng như các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ. Đặc biệt là các giải pháp về củng cố xây dựng nền tảng vững chắc ổn định kinh tế vĩ mô.

 Xin cảm ơn ông!

Theo Thời báo Ngân hàng

Thông tin kinh tế Quốc tế tuần từ 11 – 16/2/2019

IMF đã dùng thuật ngữ “4 đám mây đen lớn” để mô tả các yếu tố chính làm suy yếu tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đồng thời cảnh báo có thể xuất hiện một cơn bão kinh tế.

KINH TẾ – TÀI CHÍNH THẾ GIỚI Nội dung
Tăng trưởng – Lạm phát – Eurozone: Ngày 07/02, Ủy ban châu Âu (EC), cơ quan hành pháp của Liên minh châu Âu (EU) đã hạ dự báo tốc độ tăng trưởng trong năm 2019 của Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) giảm sâu do kinh tế Đức suy giảm ngoài dự đoán và các cuộc biểu tình tại Pháp đã tác động đến nền kinh tế ở châu Âu.

+ Tốc độ tăng trưởng GDP của Eurozone đạt 1,3%, thấp hơn nhiều so với mức dự đoán 1,9% đưa ra hồi tháng 11/2018.

+ GDP của Italy chỉ tăng trưởng 0,2%, giảm mạnh so với mức 1% đạt được trong năm 2018, cũng như thấp hơn nhiều so với mức dự báo 1,2% được EC đưa ra hồi tháng 11/2018. Năm 2020, nền kinh tế Italy có thể tăng trưởng 0,8%, thấp hơn so với dự báo 1,3% đưa ra trước đó.

– Indonesia: Tính riêng trong quý IV/2018, nền kinh tế Indonesia tăng 5,18%, đưa tốc độ tăng trưởng cả năm 2018 đạt 5,17%. Đây là mức cao nhất trong 5 năm qua, chủ yếu nhờ vào tiêu dùng hộ gia đình, đầu tư và chi tiêu của chính phủ, trong đó tiêu dùng hộ gia đình đóng góp 2,74% (tăng 5,05%); đầu tư 2,17% (tăng 6,67%) và chi tiêu chính phủ 0,38% (tăng 4,3%). (Theo Cơ quan Thống kê Trung ương Indonesia ngày 08/02)

Sản xuất công nghiệp Hiệp hội Thép Thế giới cho biết, tổng sản lượng thép thô trên toàn thế giới đạt 1,88 tỷ tấn trong năm 2018, tăng 4,6% so với năm 2017. Trong đó Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng đầu, đạt 928,3 triệu tấn (tăng 6,6%) và chiếm tỷ trọng 51,3% tổng sản lượng thép toàn cầu, tăng nhẹ so với con số 50,3% của năm 2017.

Xếp sau Trung Quốc lần lượt là Ấn Độ (106,5 triệu tấn), Nhật Bản (104,23 triệu tấn), Hoa Kỳ (86,7 triệu tấn), Hàn Quốc (72,5 triệu tấn). Trong vài năm trở lại đây, ngành công nghiệp thép thế giới luôn trong tình trạng dư thừa nguồn cung do năng lực sản xuất vượt quá nhu cầu. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo giai đoạn 2018 – 2020, công suất thép toàn cầu sẽ tăng thêm 52 triệu tấn do sẽ có nhiều quốc gia mở rộng năng lực sản xuất. (Theo Hãng Thông tấn Yonhap ngày 04/01)

Chứng khoán – Chứng khoán Hoa Kỳ: Trong tuần từ ngày 11 – 16/02/2019, chỉ số Dow Jones; S&P 500  và Nasdaq Composite tăng lần lượt 3,09%; 2,50% và 2,51% so với chốt phiên giao dịch cuối tuần trước (08/01/2019). Trong ngày giao dịch 15/02/2019:

+ Dow Jones tăng 339,98 điểm (+1,33%) lên 25.883,25 điểm.

+ S&P 500 S&P 500 tăng 29,87 điểm (+1,09%) lên 2.775,60 điểm.

+ Nasdaq Composite tăng 45,46 điểm (+0,61%) lên 7.472,41 điểm.

– Chứng khoán châu Á: Tính chung cả tuần, MSCI châu Á – Thái Bình Dương tăng 0,72 điểm (0,47%). Trong ngày giao dịch cuối tuần (15/02/2018) so với phiên giao dịch hôm trước, các chỉ số:

– Nikkei 225 (Nhật Bản) giảm 239,08 điểm (-1,13%) xuống 20.900,63 điểm.

– Shanghai Composite (Thượng Hải) giảm 37,31 điểm (-1,37%) xuống 2.682,38 điểm.

– Hang Seng (Hồng Kông) giảm 531,21 điểm (-1,87%) xuống 26.900,84 điểm.

Dầu mỏ Sản lượng dầu mỏ của Nga trong tháng 01/2019 đã giảm xuống còn 11,38 triệu thùng/ngày, thấp hơn mức 11,45 triệu thùng/ngày của tháng 12/2018 – mức cao kỷ lục tính theo tháng. Con số này giảm khoảng 35.000 thùng mỗi ngày so với mức của tháng 10/2018 (mốc tính theo thỏa thuận toàn cầu).

Như vậy, mức cắt giảm này không đạt được mục tiêu mà thỏa thuận của các nước sản xuất dầu mỏ chủ chốt đã đặt ra. Bên cạnh đó, xuất khẩu dầu qua hệ thống đường ống dẫn dầu của Nga giảm xuống 4,313 triệu thùng/ngày trong tháng 01/2019, so với mức 4,496 triệu thùng/ngày trong tháng 12/2018. (Theo Bộ Năng lượng Nga ngày 03/02)

  Tuần từ ngày 11 – 15/02/2019, giá dầu WTI và Brent tăng lần lượt là 5,44% và 6,68%. Chốt phiên giao dịch cuối tuần (25/01/2019), giá dầu thô kỳ hạn:

– Dầu WTI của Hoa Kỳ tăng 1,18 USD (+2,12%) lên 55,59 USD/thùng.

– Dầu Brent tăng 1,68 USD (+2,54%) lên 66,25 USD/thùng.

Châu Âu – Hà Lan: Trong năm 2018, có 42 công ty đã chuyển hoặc cho biết sẽ chuyển các hoạt động của mình từ nước Anh sang Hà Lan do những bất ổn liên quan đến Brexit. Điều này đồng nghĩa với việc dịch chuyển gần 2.000 việc làm và 291 triệu EUR (330 triệu USD) vốn đầu tư. Phần lớn các công ty này là của nước Anh, nhưng cũng có một số công ty đến từ châu Á và Hoa Kỳ.

Nhiều công ty cũng đang xem xét chuyển hoạt động sang các nước khác trong Liên minh châu Âu (EU) như Đức, Pháp và Ireland. Bên cạnh các công ty và tập đoàn, Cơ quan Y tế châu Âu (EMA) cũng cho biết sẽ chuyển từ Anh sang Hà Lan vì theo luật, cơ quan này không thể hoạt động ở một nước không phải là thành viên của EU. (Theo Cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài của Hà Lan ngày 09/02)

– Anh: Nền kinh tế nước này trong năm 2018 tăng trưởng ở mức thấp nhất trong vòng 6 năm qua khi GDP chỉ đạt 1,4%, giảm so với mức 1,8% trong năm 2017, trong khi tăng trưởng GDP trong quý IV/2018 chỉ đạt 0,2%. Tốc độ tăng GDP đã chậm lại rõ rệt trong 3 tháng cuối năm 2018, trong đó riêng tháng 12 giảm 0,4%.

Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 9/2012, tăng trưởng trong các lĩnh vực xây dựng, sản xuất và dịch vụ giảm trong tháng cuối cùng của năm. Báo cáo của Văn phòng Thống kê quốc gia Anh (ONS) được công bố trong bối cảnh tiến trình Brexit vẫn chưa rõ ràng và tăng trưởng kinh tế toàn cầu yếu hơn. (Theo ONS ngày 11/02) 

– Đức: Brexit không đạt được thỏa thuận có thể làm cho 600.000 người trên thế giới mất việc làm, trong đó Đức chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Trong trường hợp nhập khẩu của Anh từ các nước còn lại trong EU giảm 25% sau Brexit, khoảng 180.000 việc làm tại các công ty ở 27 nước EU xuất khẩu trực tiếp sang Anh có nguy cơ bị đe dọa.

Trong khi đó, 433.000 việc làm ở các công ty tại EU và trên thế giới cũng có thể bị ảnh hưởng do sản phẩm của các công ty này được bán cho các công ty xuất khẩu trực tiếp sang Anh. (Theo Viện nghiên cứu IWH hàng đầu của Đức ngày 11/02)

– Nga: Nga đã tuyên bố kế hoạch chi trên 25.700 tỷ ruble (tương đương 391 tỷ USD) cho các dự án thuộc nhiều lĩnh vực phát triển chiến lược trong giai đoạn 2019 – 2024, nhằm đảm bảo sự phát triển đột phá về kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ, nâng cao điều kiện sống của người dân, tạo ra các cơ hội và điều kiện cho sự phát triển tài năng và thể hiện khả năng của mỗi cá nhân.

Trong khoản chi trên, khoảng 13.200 tỷ ruble sẽ được trích ra từ ngân sách liên bang, 4.900 tỷ ruble lấy từ ngân sách địa phương, 7.500 tỷ ruble từ các nguồn vốn ngoài ngân sách bổ sung. Chính phủ Nga dự định sử dụng 10.100 tỷ ruble (153,8 tỷ USD) trong 25.700 tỷ ruble trên để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thông qua các dự án khác nhau, cũng như một kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng toàn diện.

Ngoài ra, 9.900 tỷ ruble sẽ được dùng để tạo ra một môi trường sống tiện lợi cho người dân, bao gồm hệ thống đường sá, nhà ở và môi trường đô thị an toàn và chất lượng cao, cùng với các dự án sinh thái và sẽ dành khoảng 5.700 tỷ ruble để đầu tư vào các lĩnh vực y tế, giáo dục và văn hóa. (Theo Chính phủ Nga ngày 11/02)

Châu Á – Ai Cập:

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhất trí giải ngân khoản vay thứ 5 trị giá 2 tỷ USD cho Ai Cập trong thời gian tới. Chương trình cho vay đối với Ai Cập được hai bên ký kết vào tháng 11/2016. Với khoản cho vay tiếp theo này, Ai Cập sẽ nhận tổng cộng 10 tỷ USD trong khoản cho vay cam kết 12 tỷ USD từ IMF. (Theo Bộ trưởng Tài chính Ai Cập Mohamed Maait ngày 04/02)

+ Ngân hàng Trung ương (CBE) của Ai Cập dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất và lưu hành đồng bảng Ai Cập bằng chất liệu polymer vào năm 2020. Theo kế hoạch, CBE sẽ từng bước đưa vào lưu thông một số loại tiền bằng chất liệu polymer, với mệnh giá ban đầu 10 bảng Ai Cập nhằm thử nghiệm mức độ chấp nhận trên thị trường tiền tệ trong dài hạn.

Nhiều chuyên gia kinh tế kỳ vọng việc Ai Cập chuyển đổi sang sử dụng đồng nội tệ bằng chất liệu polymer sẽ có tác động tích cực tới nền kinh tế nước này. Hiện có hơn 30 quốc gia trên thế giới sử dụng tiền polymer. (Theo Truyền thông Ai Cập ngày 08/02)

– Philippines: Bộ Thương mại và Công nghiệp Philippines (DTI) đã thông báo về việc áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời đối với sản phẩm xi-măng nhập khẩu vào quốc gia này, trong bối cảnh lượng nhập khẩu xi-măng gia tăng đột biến là nguyên nhân gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước trong thời kỳ điều tra. DTI áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời 8,40 PHP/túi 40kg, tương đương 210 PHP/tấn (khoảng 4 USD/tấn).

Lượng thuế tự vệ này được xác định trên cơ sở cân bằng lợi ích của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là đảm bảo lượng cung duy trì ổn định và giá bán không tăng. Biện pháp tự vệ tạm thời này sẽ có hiệu lực trong 200 ngày dưới hình thức tiền ký quỹ đối với xi măng nhập khẩu với sản phẩm bị điều tra là xi măng có mã HS: 2523.2990 và 2523.9000; thời kỳ điều tra để xem xét lượng tăng nhập khẩu, thiệt hại trong giai đoạn 2013 – 2017. (Theo Thương vụ Việt Nam tại Philippines ngày 06/02)

– Indonesia: Thâm hụt ngân sách năm 2018 của Indonesia đạt khoảng 1,72% GDP, thấp hơn mức dự tính ban đầu của chính phủ nước này là 2,19% GDP. Đây cũng là mức thâm hụt ngân sách trên GDP thấp nhất kể từ năm 2012. Trong năm 2018, Indonesia lần đầu tiên (kể từ năm 2011) đạt thặng dư ngân sách cơ bản 4.100 tỷ rupiah (khoảng 283,25 triệu USD). (Theo Cơ quan Thống kê Trung ương Indonesia ngày 08/02)

– Các quốc gia Ả-rập: Nợ công tại các quốc gia Ả-rập đã tăng nhanh kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, do thâm hụt ngân sách liên tục ở mức cao. Nợ công ở các nước này đã tăng từ 64 – 85% GDP trong thập kỷ tính từ năm 2008. Nợ công tại các nước xuất khẩu dầu mỏ – bao gồm cả sáu quốc gia thuộc Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh, tăng từ 13% lên 33% GDP, do giá dầu mỏ 5 năm trước giảm mạnh. (Theo IMF ngày 09/02)

– Hàn Quốc: 

+ Ngày 09/02, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã ra phán quyết cho phép Hàn Quốc áp thuế trả đũa gần 85 triệu USD/năm với những mặt hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, nhằm đáp trả lại các biện pháp mà nước này áp dụng với mặt hàng máy giặt nhập khẩu từ Hàn Quốc.

Tranh chấp giữa hai nước bắt đầu vào năm 2012, khi Hoa Kỳ áp thuế chống bán phá giá 9,29% với máy giặt của công ty điện tử Samsung và 13% với máy giặt thương hiệu LG của Hàn Quốc. Vào tháng 8/2013, Hàn Quốc khởi kiện lên WTO. Đến tháng 01/2018, Hàn Quốc đã trình WTO đề nghị phê chuẩn áp thuế trả đũa 711 triệu USD/năm với hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ.

+ Hàn Quốc đang nỗ lực giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào hoạt động xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, thay vào đó là làm đa dạng các thị trường xuất khẩu, nhất là tại khu vực Đông Nam Á. Hoạt động xuất khẩu của Hàn Quốc sang các quốc gia thành viên Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), trong đó có Việt Nam, đã tăng từ 10,4% trong năm 2007 lên 16,6% vào năm 2018, nhờ doanh số bán các sản phẩm bán dẫn, màn hình và hàng hóa tiêu dùng của nước này tăng mạnh. Hàn Quốc đề ra mục tiêu nâng kim ngạch thương mại với ASEAN lên trên 200 tỷ USD vào năm 2020. (Theo Bộ Công nghiệp, Thương mại và Năng lượng Hàn Quốc ngày 11/01)

Hoa Kỳ Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ trong tháng 01/2019 đã tăng lên 4%, mức cao nhất trong 7 tháng qua, do trong 5 tuần trước đó, khi một phần Chính phủ Hoa Kỳ bị tê liệt không thể hoạt động do chưa thông qua ngân sách, làm cho 800.000 nhân viên chính phủ nghỉ việc  và khoảng 500.000 người phải làm công việc bán thời gian.

Tuy nhiên, trong tháng 1 cũng có thêm 304.000 việc làm đã được tạo ra trên thị trường lao động Hoa Kỳ, mức cao nhất trong gần 1 năm qua và tăng gấp đôi so với dự đoán của các nhà kinh tế.

Trong đó, số việc làm trong ngành giải trí và dịch vụ tăng khoảng 74.000 việc làm, với các nhà hàng và quán bar cung cấp thêm 32.000 việc làm trong khi ngành xây dựng thêm 52.000 việc làm và các trung tâm chăm sóc y tế bổ sung thêm 41.000 việc làm mới. Đây là dấu hiệu cho thấy thị trường lao động Hoa Kỳ vẫn là nguồn tăng trưởng cơ bản mặc dù nền kinh tế Hoa Kỳ được dự báo suy giảm trong năm 2019.

(Theo Bộ Lao động Hoa Kỳ ngày 01/02)

  Chỉ số các nhà quản lý mua hàng (PMI) của Hoa Kỳ trong tháng 01/2019 đã được cải thiện nhờ sản lượng và số đơn hàng mới tăng nhanh hơn. Chỉ số PMI tháng 01/2019 của Hoa Kỳ đạt 54,9 điểm, tăng so với 53,8 điểm ghi nhận được trong tháng 12/2018, cho thấy sự cải thiện trong thể trạng chung của lĩnh vực sản xuất. (Theo Công ty nghiên cứu thị trường IHS Markit ngày 01/02)
  Trong tháng 12/2018, các khoản vay tiêu dùng tại nước này tăng 16,6 tỷ USD, thấp hơn mức tăng 22,4 tỷ USD trong tháng 11/2018. Tuy nhiên, đà tăng trong tháng cuối năm vẫn giúp nâng tổng khoản vay tiêu dùng lên mức kỷ lục 4.010 tỷ USD.

Mức chi thông qua thẻ tín dụng tăng 1,7 tỷ USD, giảm so với mức tăng tương ứng 4,8 tỷ USD của tháng 11/2018, trong khi khoản vay mua xe và khoản vay của sinh viên tăng 14,8 tỷ USD. Các nhà phân tích dự báo các khoản vay tiêu dùng sẽ tăng cao hơn, nhờ tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp và thu nhập tăng ổn định. Hiện chi tiêu tiêu dùng đang đóng góp 70% hoạt động của kinh tế Hoa Kỳ. (Theo Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ ngày 08/02)

Trung Quốc Ngày 01/02, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã bơm tiền vào thị trường trị giá 80 tỷ CNY (khoảng 11,94 tỷ USD) cho các thỏa thuận mua lại đảo ngược ở mức lãi suất 2,7% để duy trì tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.

Toàn bộ các mức lãi suất chính đều tiếp tục giảm trong ngày 01/02, với kỳ hạn dao động từ lãi suất qua đêm đến một năm. Lãi suất qua đêm của liên ngân hàng Thượng Hải (Shibor) giảm 13,8 điểm cơ bản xuống 2,1% so với ngày giao dịch trước đó, trong khi lãi suất 14 ngày là 2,843%, giảm 13,6 điểm cơ bản.

  Ngành công nghiệp dầu mỏ và hóa dầu của Trung Quốc đã tăng trưởng 32,1% trong năm 2018, cao hơn mức tăng trung bình 10,3% của các doanh nghiệp công nghiệp chủ chốt của nước này. Sản lượng của ngành công nghiệp dầu mỏ và hóa dầu Trung Quốc tăng đều đặn trong năm 2018 cho thấy sự tiến triển tương đối tốt trong việc đạt được những kết quả tích cực nhờ chi phí hoạt động tiếp tục giảm và nhu cầu ổn định của thị trường.

Tổng lợi nhuận của ngành công nghiệp dầu mỏ và hóa dầu Trung Quốc đã đạt 839,38 tỷ CNY (khoảng 125 tỷ USD), chiếm 12,7% tổng lợi nhuận của các doanh nghiệp công nghiệp chủ chốt của nước này.

Tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp dầu mỏ và hóa dầu Trung Quốc đạt 701,87 tỷ CNY trong năm 2018, tăng 22% so với năm 2017. Xuất khẩu các hóa chất đặc biệt, vật liệu tổng hợp và vật liệu hóa chất hữu cơ tăng lần lượt 19,7%, 17,2% và 21,6%. Trong khi đó, đầu tư của ngành công nghiệp dầu mỏ và hóa dầu Trung Quốc cũng tăng 6%.

(Theo Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin Trung Quốc ngày 09/02)

 

Nhật Bản

Hiệp định thương mại tự do (FTA) EU – Nhật Bản chính thức có hiệu lực từ đêm ngày 31/01 được kỳ vọng sẽ đóng vai trò là đầu tàu tăng trưởng cho kinh tế Nhật Bản. Để tối ưu hóa lợi ích kinh tế, Nhật Bản sẽ thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư ra nước ngoài, cũng như thúc đẩy nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.

Thỏa thuận sẽ giúp người tiêu dùng có thêm lựa chọn và mua sắm rẻ hơn, đồng thời giúp bảo vệ các sản phẩm châu Âu chất lượng cao tại Nhật Bản và ngược lại. Chính phủ Nhật Bản ước tính thỏa thuận với EU sẽ mang lại lợi ích kinh tế vào khoảng 5.200 tỷ JPY (tương đương 48 tỷ USD) và tạo ra 290.000 việc làm. (Theo Chính phủ Nhật Bản ngày 01/02)

Venezuela Venezuela đang triển khai một hệ thống thanh toán theo hình thức như hàng đổi hàng với Ấn Độ nhằm thúc đẩy việc xuất khẩu dầu khí vào quốc gia tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ 3 thế giới. Chính phủ của Tổng thống Nicolas Maduro đang tìm các cơ chế thanh toán thay thế sau khi Chính phủ Hoa Kỳ siết chặt các lệnh trừng phạt đối với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Venezuela (PDVSA) nhằm hạn chế hoạt động xuất khẩu dầu thô của Caracas sang Washington.

Sản lượng dầu thô của Venezuela đã giảm mạnh trong suốt hai thập kỷ qua, từ hơn 3 triệu thùng/ngày vào những năm 2000 – 2001 xuống còn 1,2 – 1,4 triệu thùng/ngày vào cuối năm 2018. Phần lớn dầu thô của Venezuela sản xuất hiện nay là dầu nặng hoặc siêu nặng. (Theo Bộ trưởng Dầu mỏ Venezuela, Manuel Quevedo ngày 11/02)

Đàm phán – Ký kết Bolivia và Trung Quốc

Theo Tập đoàn mỏ lithium nhà nước Bolivia YLB ngày 10/02, YLB và TBEA – Baocheng của Trung Quốc đã ký kết thỏa thuận sơ bộ để đầu tư xây dựng 8 nhà máy khai thác và sản xuất lithium tại các mỏ muối ở vùng Andes của Bolivia.

Theo đó, hai bên đã nhất trí thành lập công ty liên doanh với kế hoạch dự định đầu tư gần 2,4 tỷ USD để công nghiệp hóa ngành sản xuất lithium, cùng nhiều khoáng sản khác. Dự kiến YLB và TBEA- Baocheng sẽ thực hiện nghiên cứu cần thiết để xây dựng 5 nhà máy sản xuất kali sunfat, lithium hydroxide, axit boric, bromine và natri bromide tại mỏ Coipasa, bang Oruco, với tổng mức đầu tư trên 1,3 tỷ USD. Công trình này cần 4 – 5 năm để thực hiện.

Theo ước tính đến năm 2025, Trung Quốc cần 800.000 tấn lithium mỗi năm. Trong khi đó, Bolivia có trữ lượng lithium lớn nhất thế giới với khoảng 9 triệu tấn dạng muối, chủ yếu tập trung tại Uyuni.

Nhận định chuyên gia IMF ngày 10/02:

Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thế giới thấp hơn dự kiến, IMF ngày 10/02 đã cảnh báo Chính phủ các nước cần chuẩn bị đối phó với cơn bão kinh tế có thể xảy ra bất cứ lúc nào. IMF đã dùng thuật ngữ “4 đám mây đen lớn” để mô tả các yếu tố chính làm suy yếu tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đồng thời cảnh báo có thể xuất hiện một cơn bão kinh tế.

Những rủi ro bao gồm: Căng thẳng thương mại và vấn đề thuế quan leo thang; chính sách thắt lưng buộc bụng về tài chính; tính không xác định liên quan đến hậu quả của Brexit và sự mở rộng của nó;  tốc độ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại. Trong bản báo cáo công bố vào tháng 01/2019, IMF dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2020 giảm từ 3,7% xuống còn 3,5%.

Theo Trung tâm Thông tin và Dịch vụ Tài chính

 

Thông tin Kinh tế trong nước tuần từ 11 – 16/2/2019

Việt Nam cần phát huy lợi thế từ một nền kinh tế tăng trưởng nhanh cùng với những chính sách hỗ trợ phát triển của Chính phủ để có thể hội nhập sâu hơn nữa vào khu vực và tận dụng được nhiều lợi ích đến từ cơ hội toàn cầu hóa.

KINH TẾ – TÀI CHÍNH VIỆT NAM Nội dung
Tổng cung
Tăng trưởng Bizlive.vn ngày 11/02 dẫn báo cáo của Công ty Chứng khoán BIDV (BSC) dự báo một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm 2019 như sau:  CPI tăng trở lại mức 4% do. Nợ công và nợ chính phủ nhiều khả năng sẽ chững lại, do GDP tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và Chính phủ tích cực thực hiện các hoạt động thoái vốn doanh nghiệp nhà nước làm giảm thiểu áp lực tài chính. Tín dụng tăng trưởng 14% trong khi kim ngạch xuất khẩu đạt 273,25 tỷ USD (tăng 12,5%) và nhập khẩu đạt 265.58 tỷ (tăng 13%). GDP năm 2019 sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 6,7%, giảm nhẹ so với 2018.
Sản xuất công nghiệp Trong năm 2019, ngành trồng trọt phấn đấu đạt đạt 1 triệu ha cây ăn quả, đưa giá trị xuất khẩu rau quả đạt khoảng 4,2 tỷ USD, từng bước hạn chế sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc đối với một số mặt hàng trái cây tươi. Giá trị xuất khẩu rau quả năm 2018 đạt 3,8 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2017. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam với trên 73% thị phần. (Theo Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 05/02)
  Theo tính toán từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), chi phí sản xuất điện từ than sẽ đội thêm khoảng 5.500 tỷ đồng trong năm 2019, do giá than đã được điều chỉnh tăng (từ đầu tháng 1/2019) của Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản và Tổng công ty Đông Bắc cũng như giá than trộn (giữa than nhập khẩu và than sản xuất trong nước).

EVN đề nghị Thủ tướng xem xét cho phép các nhà máy điện được điều chỉnh giá bán điện trong hợp đồng mua bán điện và tham gia thị trường điện do sử dụng than trộn và được tính toán cập nhật vào giá điện bình quân trong năm 2019. (Theo Báo Đầu tư ngày 13/02)

Dịch vụ Trong tuần (ngày 02/02 đến 06/02)ến mùng 2 Tết), tổng số khách du lịch đến Hà Nội đạt 272.788 lượt, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách quốc tế đến Hà Nội ước đạt 81.628 lượt khách, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước. Khách quốc tế lưu trú ước đạt 57.303 lượt, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước; khách du lịch nội địa đến Hà Nội ước đạt 191.160 lượt, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng thu từ khách du lịch ước đạt 1.056 tỷ đồng, tăng 33,8% so với cùng kỳ năm 2018. (Theo Sở Du lịch Hà Nội ngày 08/02)
Doanh nghiệp Tính đến hết ngày 31/01/2019, đã có 672 doanh nghiệp công bố báo cáo tài chính quý IV/2018 (chiếm 88,4% vốn hóa trên 3 sàn HoSE, HNX, Upcom). Theo đó, tổng lợi nhuận ròng cả năm 2018 của doanh nghiệp đạt khoảng 243.000 tỷ đồng, tăng trưởng 18% so với năm 2017. Tuy nhiên, nếu loại trừ lợi nhuận đột biến của VHM (tăng gần 13.000 tỷ đồng lợi nhuận) tốc độ tăng trưởng chỉ là 11,8%.

Tỷ lệ ROE chung toàn thị trường đạt 14%, giảm so với 14,5% của năm 2017; trong khi đó ROA tăng từ 2,5% lên 2,7%. Có 557/672 doanh nghiệp báo lãi trong năm 2018, đạt tỷ lệ 83%. Số doanh nghiệp đã hoàn thành lợi nhuận kế hoạch là 307 doanh nghiệp, chiếm 45,7%. Nhóm các doanh nghiệp tăng trưởng mạnh nhất trong năm 2018 có các mã tiêu biểu: VHM (909,7%), ACB (142,5%), ANV (321,5%), MSR (222,3%). (Bizlive.vn ngày 06/02 dẫn số liệu thống kê từ Hệ thống FiinPro Platform, StoxPlus)

  Trong danh sách 500 thương hiệu ngân hàng có giá trị nhất trên thế giới do Brand Finance vừa công bố, Việt Nam có 4 ngân hàng là BIDV, VietinBank và Vietcombank và VPBank. VPBank là ngân hàng tư nhân duy nhất của Việt Nam lọt vào danh sách này, đứng ở vị trí 361. Thứ hạng của giá trị thương hiệu VietinBank tăng từ 310 lên 242, BIDV tăng từ 351 lên 307, Vietcombank tăng từ 368 lên 325 so với năm ngoái. (Theo bnews.vn ngày 11/02)
  Tính đến ngày 01/02/2019, trên cả 3 sàn HoSE, HNX, Upcom có tổng cộng 29 doanh nghiệp có vốn hóa trên 1 tỷ USD. VinGroup soán ngôi Vinamilk, trở thành doanh nghiệp có vốn hóa lớn nhất TTCK Việt Nam với hơn 315 nghìn tỷ đồng, tương ứng 13,6 tỷ USD.

Nhóm ngân hàng chiếm áp đảo về số lượng trong danh sách tỷ đô khi có tới 8 cái tên góp mặt trong danh sách, bao gồm Vietcombank (9 tỷ USD), BIDV (4,7 tỷ USD), Techcombank (4,1 tỷ USD), Vietinbank (3,2 tỷ USD), VPBank (2,1 tỷ USD), MBBank (2 tỷ USD), ACB (1,6 tỷ USD) và HDBank (1,3 tỷ USD). (Theo bizlive.vn ngày 11/02)

  Năm 2019, ngành thuỷ sản đang hướng tới mục tiêu xuất khẩu cá tra đạt 2,4 tỷ USD. Mục tiêu này hoàn toàn có thể đạt được, bởi hiện các nhà máy chế biến cá tra của Việt Nam đều đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn mà các nước nhập khẩu khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU đã đánh giá và công nhận.

Năm 2019, xuất khẩu cá tra là một trong những ngành được hưởng lợi nhiều nhất nhờ nhu cầu gia tăng tại Trung Quốc và thuế nhập khẩu cá tra vào Liên minh châu Âu (EU) sẽ giảm từ 5,5% về 0% trong 3 năm (với cá tra thô); từ 7% về 0% trong 7 năm (với cá tra chế biến). Năm 2018, xuất khẩu cá tra đạt mức kỷ lục 2,26 tỷ USD, tăng 26,4% so với năm 2017. (Bnews ngày 09/02 dẫn nguồn tin từ Tổng cục Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

  Năm 2019 có gần 150 doanh nghiệp thuộc kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn đã được phê duyệt. Trong quý I/2019, Bộ Công Thương sẽ bàn giao tối thiểu 5 doanh nghiệp đủ điều kiện sang Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Theo tính toán của SCIC, có hơn 100 doanh nghiệp hiện đủ điều kiện chuyển giao về Tổng công ty. (Theo Tinnhanhchungkhoan.vn ngày 14/02)
  Số dư Quỹ bình ổn giá xăng dầu tính đến hết năm 2018 là hơn 3.500 tỷ đồng, giảm khoảng 1.600 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2017. Trong quý IV/2018, tổng số tiền trích quỹ bình ổn giá là trên 2.104 tỷ đồng;  số tiền đã sử dụng là hơn 1.642 tỷ đồng. Cùng với lãi phát sinh trên số dư quỹ, quỹ bình ổn giá tới hết quý IV/2018 đạt trên 3.504 tỷ đồng. Số dư quỹ này tại thời điểm ngày 31/12/2017 là hơn 5.105 tỷ đồng. (Theo Bộ Tài chính ngày 12/2)
  Trong năm 2018, qua kiểm toán tổng hợp tại các bộ, ngành và 26 cuộc kiểm toán liên quan đến việc quản lý, sử dụng vốn ODA, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị xử lý tài chính 21.712 tỷ đồng. Một số dự án có sai sót lớn như Dự án Đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông kiến nghị xử lý tài chính 2.814 tỷ đồng, bằng 23,6% giá trị được kiểm toán.

Dự án xây dựng tuyến đường sắt đô thị số 1 thành phố Hồ Chí Minh, tuyến Bến Thành – Suối Tiên kiến nghị xử lý tài chính 2.898 tỷ đồng, bằng 11,4% giá trị được kiểm toán. (Theo Kiểm toán Nhà nước ngày 12/02)

  Tổ chức Xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s  xếp hạng tiền gửi nội tệ dài hạn mức Ba3 và xếp hạng nhà phát hành nội, ngoại tệ dài hạn mức Ba3, triển vọng ổn định đối với Agribank. Moody’s nhấn mạnh Agribank đã tích cực xử lý tài sản có vấn đề trong 5 năm qua, với nhiều tiến bộ quan trọng trong 6 tháng cuối năm 2018; huy động vốn và thanh khoản ở mức tốt. Đến nay, tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn của Agribank chiếm hơn 70% tổng dư nợ, chiếm trên 50% thị phần tín dụng nông thôn tại Việt Nam. Agribank là ngân hàng lớn nhất Việt Nam về tiền gửi và có mạng lưới rộng nhất tại Việt Nam. (Theo Infomoney.vn ngày 12/02)
Tổng cầu
Đầu tư Năm 2019, Tổng công ty có kế hoạch khởi công 33 dự án lưới điện truyền tải; trong đó có 3 dự án 500kV và 30 dự án 220kV; đồng thời hoàn thành và đưa vào vận hành 47 dự án; trong đó có 14 dự án 500kV, 30 dự án 220kV và ba dự án 110kV, với tổng giá trị 19.500 tỷ đồng, tăng 3.731 tỷ đồng so với khối lượng đầu tư năm trước.

Trong năm 2019, tổng công ty sẽ tập trung đảm bảo tiến độ hoàn thành các công trình quan trọng đảm bảo cấp điện cho miền Nam và hoàn thành các công trình trọng điểm đảm bảo cung cấp điện cho Hà Nội và các khu vực kinh tế trọng điểm. (Thời báo Tài chính ngày 03/02 dẫn nguồn tin từ Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia – EVNNPT)

Ngân sách
nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) tháng 01/2019 ước đạt 144,6 nghìn tỷ đồng, bằng 10,2% dự toán, tăng 7,5% so cùng kỳ năm 2018. Trong đó, thu nội địa ước đạt 120,5 nghìn tỷ đồng, bằng 10,3% dự toán, tăng 5,3% (so cùng kỳ năm 2018).

Thu từ dầu thô ước đạt 4,5 nghìn tỷ đồng, bằng 10,1% dự toán. Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 19,5 nghìn tỷ đồng, bằng 10,3% dự toán. Tổng chi cân đối NSNN tháng 01/2019 ước đạt 92,9 nghìn tỷ đồng, bằng 5,7% dự toán. Riêng chi đầu tư phát triển đạt thấp, khoảng 0,6% dự toán do đang trong quá trình phân bổ, thông báo kế hoạch vốn cho các chủ đầu tư. (Theo Bộ Tài chính ngày 01/02)

  Trong tháng 01/2019, toàn ngành Tài chính đã thực hiện 1.587 cuộc thanh tra, kiểm tra; điều tra chống buôn lậu, phát hiện, bắt giữ 1.430 vụ; kiến nghị xử lý tài chính hơn 981 tỷ đồng, xử phạt vi phạm hành chính hơn 63,2 tỷ đồng; số tiền đã thu nộp NSNN hơn 220,7 tỷ đồng.

Từ ngày 16/12/2018 đến ngày 15/1/2019, cơ quan hải quan đã chủ trì, phối hợp, phát hiện, bắt giữ tổng số 1.430 vụ việc vi phạm, trị giá hàng hóa vi phạm ước tính hơn 39,2 tỷ đồng; số thu ngân sách đạt 15,579 tỷ đồng; cơ quan hải quan khởi tố 5 vụ án hình sự; chuyển cơ quan khác khởi tố 10 vụ. Cơ quan thuế đã thực hiện 802 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 580 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Qua thanh tra, kiểm tra, cơ quan thuế đã xử lý tăng thu gần 519 tỷ đồng. (Theo Bộ Tài chính ngày 06/02)

Xuất nhập khẩu Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu tôm sang thị trường Hàn Quốc trong năm 2019 nhờ nhu cầu ổn định, giá xuất khẩu cao, ưu đãi thuế quan thông qua Hiệp định Thương mại Tự do Hàn Quốc – Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh.

Dự báo kim ngạch xuất khẩu tôm sang Hàn Quốc đạt 500 triệu USD trong năm 2019, tăng 29,5% so với năm 2018. Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu tôm lớn thứ 5 của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 10,9%. Năm 2018, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 385,8 triệu USD, tăng 1% so với năm 2017. (Theo thông tin từ VASEP ngày 11/02)

  Trong 15 ngày đầu tháng 01/2019 cả nước nhập 6.362 ô tô nguyên chiếc, trị giá gần 158 triệu USD, tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2018 (47 xe với tổng kim ngạch gần 5,5 triệu USD). Trong đó ô tô dưới 9 chỗ ngồi chiếm phần lớn với 4.264 xe, tổng trị giá gần 96 triệu USD.

Như vậy, trị giá bình quân một chiếc xe du lịch nhập về là 22.500 USD (chưa thuế), tương đương 523 triệu đồng. Năm 2018, cả nước nhập 81.609 ô tô, với tổng kim ngạch 1,8 tỷ USD, giảm 16,1% về số lượng và 19,8% về trị giá so với năm 2017. (Theo thông tin từ Tổng cục Hải quan ngày 12/02)

Cân đối vĩ mô
Giá vàng Trong tuần qua, giá vàng có 2 ngày tăng giá, 1 ngày giảm giá và 3 ngày giá tăng/giảm trái triều. Trong phiên giao dịch ngày 16/02 so với ngày 15/02, giá vàng miếng SJC được niêm yết tại một số doanh nghiệp kinh doanh vàng:

– Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn: 36,74 – 36,98 triệu đồng/lượng, tăng 110 nghìn đồng/lượng ở chiều mua vào và tăng 130 nghìn đồng/lượng chiều bán ra.

– Công ty Doji: 36,80 – 37,20 triệu đồng/lượng, tăng 150 nghìn đồng/lượng chiều mua vào và 50 nghìn đồng/lượng chiều bán ra.

Tỷ giá Tính chung tuần qua, tỷ giá trung tâm tăng 48 đồng so với tuần trước với 3 ngày tăng giá, 1 ngày giảm giá và 2 ngày không thay đổi. Trong phiên giao dịch ngày 16/02, tỷ giá trung tâm là 22.915 VND/USD, không thay đổi so với tỷ giá ngày 15/02; tỷ giá USD tại một số ngân hàng thương mại nhìn chung không thay đổi so với ngày 15/02 như sau:

– Vietcombank: 23.150-23.250 VND/USD, không đổi.

– BIDV: 23.150- 23.250 VND/USD, không thay đổi.

– Techcombank: 23.150-23.250 VND/USD, tăng 20 đồng ở chiều mua vào và không đổi ở chiều bán ra.

Tín dụng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra định hướng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của năm 2019 là khoảng 14%. Tín dụng được điều hành theo hướng mở rộng nhưng phải đi đôi với an toàn, hiệu quả và tiếp tục tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên và kiểm soát tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Do vốn đầu tư cho nền kinh tế đến từ nhiều nguồn khác nhau nên NHNN sẽ  điều chỉnh tăng trưởng tín dụng cho phù hợp để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế Chính phủ đề ra. (Báo điện tử Tổ quốc ngày 07/02 dẫn lời Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng)

Thị trường tài sản
Cổ phiếu Vốn hóa thị trường cuối năm 2018 đạt khoảng 4 triệu tỷ đồng, tăng 13,7% so với 2017. Tỷ lệ vốn hóa/GDP đạt 72,3%, trong khi năm 2017 đạt 70,3%. Tổng giá trị vốn huy động bằng IPO và phát hành thêm cổ phiếu của các doanh nghiệp trong năm đạt khoảng 120.000 tỷ đồng, tăng trưởng 45% so với năm 2017. Trong đó, giá trị các đợt IPO đạt khoảng 74.000 tỷ đồng (khoảng 3,3 tỷ USD), tăng gần 2,5 lần so với năm 2017. (Theo số liệu thống kê trên FiinPro Platform của Stoxplus ngày 11/02)
  Trong tháng 2 sẽ chào bán hơn 37, 6 triệu cổ phần của các doanh nghiệp: Công ty cổ phần Cấp nước Thái Hòa, Công ty cổ phần Cấp nước Diễn Châu, Công ty cổ phần Cấp nước Cửa Lò, Công ty cổ phần Cấp nước Quỳnh Lưu, Công ty cổ phần Môi trường đô thị Hà Tĩnh, Công ty cổ phần Cấp thoát nước Ninh Bình, Công ty cổ phần Lilama 69 – 3, Công ty cổ phần Lilama 10. Trong năm 2018, HNX tổ chức 40 phiên đấu giá, trong đó có 10 phiên IPO, 29 phiên thoái vốn và 1 phiên đấu giá quyền mua.

Tổng khối lượng cổ phần trúng giá hơn 1,09 tỷ cổ phần, đạt tỷ lệ thành công 54%, gấp 3 lần khối lượng cổ phần trúng giá năm 2017. Tổng giá trị cổ phần trúng giá đạt 21,07 nghìn tỷ đồng, gấp 4 lần giá trị cổ phần trúng giá của năm 2017. Tổng thặng dư vốn cổ phần đạt hơn 10 nghìn tỷ đồng, tổng chênh lệch so với giá khởi điểm đạt 2,8 nghìn tỷ đồng. (Theo Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội – HNX ngày 01/02)

  Trong tuần từ ngày 11/02 – 15/02/2019:

– VN-Index có 4 ngày tăng điểm và 1 ngày giảm điểm. Chốt tuần, VN-Index giảm 1,45 điểm xuống 950,89 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 174,02 triệu đơn vị/ngày, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 4.156,16 triệu đơn vị/ngày.

– HNX-Index có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, HNX-Index giảm 8 điểm xuống 106,11 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 34,65 triệu đơn vị/ngày, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 415,42 triệu đơn vị/ngày.

 – Upcom-Index có 3 ngày tăng điểm và 2 ngày giảm điểm. Chốt tuần, Upcom-Index giảm 0,15 điểm xuống 55,24 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân đạt 8,098 triệu đơn vị/ngày, tổng giá trị giao dịch bình quân đạt 184,13 tỷ đồng/ngày.

  Trong tuần qua, khối ngoại đã mua ròng 37,63 triệu đơn vị, với tổng giá trị 1.875,89 tỷ đồng, tăng 72,46% về lượng và tăng gấp hơn 2,7 lần về giá trị so với tuần trước Tết Nguyên đán – kết thúc vào ngày 01/02 (mua ròng 500,79 tỷ đồng).

– HOSE: Khối ngoại thực hiện 5 phiên mua ròng liên tiếp với khối lượng 38,47 triệu đơn vị, tăng hơn 124% so tuần giao dịch kết thúc vào ngày 01/02, tuy nhiên, về giá trị, khối ngoại  bán ròng 1.867,58 tỷ đồng, tăng gấp gần 4 lần.

– HNX: Khối ngoại thực hiện 3 phiên mua ròng và 2 phiên bán ròng. Tổng cộng, khối ngoại đã bán ròng 1,92 triệu đơn vị, tuy nhiên về giá trị, khối ngoại mua ròng 0,36 tỷ đồng (tuần trước giao dịch kết thúc vào ngày 01/02 mua ròng hơn 4 triệu đơn vị, giá trị 81,8 tỷ đồng).

– UPCoM: Khối ngoại mua ròng 4 phiên và bán ròng 1 phiên vào cuối tuần 15/2. Tổng cộng, khối ngoại đã mua ròng 1,09 triệu đơn vị với giá trị 7,95 tỷ đồng, tăng 70,3% về lượng nhưng giảm 81,2% về giá trị so với tuần kết thúc vào ngày 01/02.

Nhận định

chuyên gia

Ông Nguyễn Mạnh Hà, Phó Chủ tịch Hiệp Hội Bất động sản Việt Nam (04/02):

Thị trường bất động sản năm 2019 sẽ phát triển với nguồn cung dồi dào, tập trung vào các dự án lớn. Những thành phố thu nhỏ với dịch vụ đầy đủ, hạ tầng đồng bộ như dự án của Vingroup sẽ là xu hướng dẫn dắt thị trường. Do nguồn cung dồi dào nên bất động sản sẽ không có khả năng tăng giá đột biến, thị trường ổn định; đặc biệt, phân khúc bất động sản công nghiệp sẽ rất phát triển.

Chuyên gia kinh tế Trần Hoàng Ngân (09/02):

Năm 2019, mục tiêu tăng trưởng GDP 6,6 – 6,8% là khả thi. Tuy nhiên, năm 2019, kinh tế Việt Nam sẽ gặp nhiều thách thức lớn bởi tình hình kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, khó lường như chiến tranh thương mại Hoa Kỳ – Trung Quốc, chính sách bảo hộ mậu dịch tạo rào cản nhất định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung.

Với độ mở trên 200%, kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ có những tác động từ kinh tế thế giới nên phải hết sức chú ý. Điều quan trọng là, chúng ta cần phát huy tiềm năng, thế mạnh sẵn có như nông nghiệp, du lịch… để bảo đảm kinh tế phát triển bền vững.

Ngân hàng HSBC (11/02):

Năm 2018 là năm thứ 6 liên tiếp Việt Nam thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài cao kỷ lục. Với nền tảng vững chắc của một nền kinh tế ủng hộ tự do thương mại và tăng trưởng mạnh, trong năm 2019, Việt Nam tiếp tục là điểm đến đầu tư thu hút cho các doanh nghiệp quốc tế.

Việt Nam cần phát huy lợi thế từ một nền kinh tế tăng trưởng nhanh cùng với những chính sách hỗ trợ phát triển của Chính phủ để có thể hội nhập sâu hơn nữa vào khu vực và tận dụng được nhiều lợi ích đến từ cơ hội toàn cầu hóa.

Theo Trung tâm Thông tin và Dịch vụ Tài chính