Hoạt động nghiên cứu khoa học

Trường đại học cần đặt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, sáng tạo ra tri thức lên trên

(ĐCSVN) – Ngày 5/10, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam dự Ngày hội khởi nghiệp quốc gia của học sinh, sinh viên năm 2019 (SV-Startup).

SV Startup2019

Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam cùng các đại biểu bấm nút khởi động Ngày hội khởi nghiệp quốc gia của HSSV năm 2019

Qua 2 năm thực hiện Đề án 1665 “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”, ngành giáo dục đã xây dựng tiêu chí các nhà trường, đơn vị khởi nghiệp, đặc biệt là xây dựng tài liệu, kỹ năng về khởi nghiệp.

Nhiều trường học đã kết nối với doanh nghiệp, xây dựng không gian khởi nghiệp, khuyến khích hỗ trợ, thầy cô giáo và học sinh, sinh viên cùng tham gia vào quá trình khởi nghiệp.

Năm 2018, SV-Startup có sự tham dự của gần 200 dự án khởi nghiệp thì năm nay đã có hơn 300 dự án. Chất lượng của các ý tưởng, dự án khởi nghiệp tốt hơn và được các doanh nghiệp đánh giá cao.

Lãnh đạo Bộ GD&ĐT cam kết thời gian tới sẽ phối hợp với các bộ ngành để kết nối hoạt động khởi nghiệp sáng tạo của học sinh, sinh viên với hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia; tháo gỡ vướng mắc sở hữu trí tuệ; tạo nguồn ngân sách hỗ trợ cho quỹ khởi nghiệp sáng tạo; xây dựng tài liệu kỹ năng, kinh nghiệm trong khởi nghiệp của sinh viên; nhân rộng mô hình “vườn ươm” giữa nhà trường và doanh nghiệp…

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu chỉ đạo tại Lễ Khai mạc Ngày hội khởi nghiệp quốc gia của HSSV năm 2019

Trò chuyện với các bạn sinh viên, học sinh tại ngày hội, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhắc lại câu chuyện ông đã trao đổi với một nữ doanh nhân tại hội nghị về phát triển bền vững mới đây: Làm sao để Việt Nam phát triển nhanh hơn, bền vững hơn khi mà quy mô nền kinh tế càng lớn thì càng khó đạt tốc độ tăng trưởng cao.

Ba thập niên vừa qua Việt Nam tăng trưởng nhanh thứ hai thế giới nhưng do xuất phát điểm quá thấp nên thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn đứng trong khoảng 120-130 trên thế giới. Nếu muốn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thì trong vòng 20 năm tới Việt Nam phải giữ được tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người trên 7,5%/năm, tức là tốc độ tăng trưởng kinh tế phải trên 8%/năm.

“Chúng ta có hài lòng ở trong bẫy thu nhập trung bình không? Chắc chắn là không. Vì vậy, phải phát huy tất cả mọi sức mạnh để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn”, Phó Thủ tướng nói.

Theo Phó Thủ tướng, Việt Nam có thể phát triển nhanh hơn nếu huy động được nguồn lực trong dân còn rất lớn, giải quyết được vướng mắc trong kinh doanh cho các doanh nghiệp. 

Đồng thời, cần kết hợp được sức mạnh dân tộc (truyền thống, con người…) với sức mạnh thời đại, trong đó có sự phát triển như vũ bão của khoa học, bằng việc tập trung thật sự vào khoa học, vào nguồn nhân lực để khơi dậy sự sáng tạo của mọi người, trước hết là trong giới nghiên cứu, nhất là nhà khoa học trẻ, sinh viên. Đây cũng là những vấn đề đặt ra trong Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh mục đích chính của đề án là trang bị các kiến thức cần thiết cho học sinh, sinh viên về khởi nghiệp. Đồng thời kết nối tất cả các trường học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp. Quan trọng nhất là đề án phải khơi dậy, rèn luyện tinh thần khởi nghiệp trong các trường học.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ tham quan gian trưng bày các dự án khởi nghiệp của HSSV

“Chúng ta đang đổi mới giáo dục, một trong những vấn đề rất căn bản là đổi mới phương pháp dạy và học. Trước đây ở cả đại học lẫn phổ thông chúng ta chú trọng phương pháp truyền thụ kiến thức một chiều, thụ động. Bây giờ trường đại học cần đặt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, sáng tạo ra tri thức lên trên. Trường phổ thông phải khơi dậy sự sáng tạo của giáo viên, học sinh để hình thành một lớp người biết sáng tạo, dám nghĩ khác, làm khác trong khoa học”, Phó Thủ tướng nói.

Bên cạnh nhiều cơ chế, chính sách về khởi nghiệp sáng tạo đã được ban hành, triển khai, nhân dịp này, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đề nghị Bộ trưởng Bộ GD&ĐT chỉ đạo tất cả các trường đại học phải có ít nhất 1 không gian làm việc sáng tạo chung (co-working space). “Hiện có khoảng 70 điểm co-working space trong các trường đại học nhưng chúng ta đâu chỉ có 70 trường đại học, chưa kể các trường nghề. Đây sẽ là những “chân rết” hình thàng mạng lưới kết nối khởi nghiệp sáng tạo của các trường đại học”, Phó Thủ tướng nói.

Bên cạnh đó, các trường đại học, các thầy cô giáo cần tham gia tích cực hơn nữa vào việc biên soạn và chia sẻ các học liệu lên trên mạng. Đó là sự đóng góp hữu ích nhất cho các bạn sinh viên khởi nghiệp được tiếp cận, thụ hưởng học liệu chất lượng nhất của những thầy giỏi nhất ở những trường tốt nhất. Và các đồng nghiệp, thầy cô giáo khác cũng nhìn vào đấy để cùng nhau phấn đấu.

“Đã có sự kết nối giữa các trường với nhau, với doanh nghiệp, các bộ ngành để hỗ trợ sinh viên, cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo nhưng chúng ta phải tham gia tích cực, mạnh mẽ hơn nữa.

Chăm chỉ, quyết tâm và nhất định phải sáng tạo. Sáng tạo là của cá nhân nhưng kết nối với nhau thì càng có ý nghĩa lớn hơn và cổ vũ thêm nhiều sáng tạo mới. Chỉ có kết nối cùng nhau thì mới tạo ra sức mạnh lớn, để cả đất nước đi nhanh hơn”, Phó Thủ tướng kêu gọi.

Nghiên cứu sự hài lòng của du khách đối với sản phẩm du lịch cộng đồng tại Điện Biên

Tóm tắt: Nghiên cứu này xác định các nhân tố ảnh hưởng và đánh giá sự hài lòng của khách du lịch đối với sản phẩm du lịch cộng đồng tại Điện Biên. Dựa trên các khung lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm và kết quả nghiên cứu định tính, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu gồm 7 nhân tố: tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, môi trường, dịch vụ ăn uống, giải trí, thái độ của dân cư, giá cả, di sản văn hóa. Thông kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha, kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích hồi quy bội, kết quả nghiên cứu cho thấy có 7 nhóm nhân tố chính tác động đến sự hài lòng của du khách sản phẩm du lịch cộng đồng Điện Biên. Trong đó, di sản văn hóa và chất lượng dịch vụ là những nhân tố có tác động mạnh nhất.

  1. Đặt vấn đề

Điện Biên là vùng đất biên cương của tổ quốc, giàu tiềm năng và có phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nơi sinh sống của 19 dân tộc anh em đa dạng về bản sắc văn hóa. Bên cạnh những quần thể di tích chiến thắng ở Điện Biên Phủ, các cảnh quan thiên nhiên nơi đây cũng vô cùng đẹp với các địa danh hồ Pá Khoang, động Pa Thơm, suối nước nóng U Va và lễ hội hoa Ban trắng… những hoạt động văn hóa cộng đồng của các dân tộc: Thái, Mông, Khơ Mú… tất cả những đặc trưng trên đã tạo ra bản sắc đặc thù và là tiềm năng quý giá để Điện Biên có thể phát triển du lịch cộng đồng. Tuy có nhiều điều điện để phát triển nhưng trong những năm qua ngành du lịch chưa có những đóng góp đáng kể cho kinh tế địa phương. Theo kết quả đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trên bình diện chung, du lịch Điện Biên đứng thứ 6/14 trong vùng và thứ 33/63 tỉnh thành cả nước về khách du lịch quốc tế; 12/14 và thứ 56/63 tỉnh, thành cả nước về khách nội địa; thứ 8/14 trong vùng và thứ 38/63 tỉnh, thành cả nước về về tổng thu từ du lịch. Một trong những nguyên nhân chính mà Điện Biên chưa thực sự hấp dẫn đó chính là sản phẩm du lịch chưa đáp ứng được sự hài lòng của du khách vì thế tỷ lệ du khách quay trở lại Điện Biên là khá thấp. Như vậy, có thể thấy việc tiến hành các nghiên cứu để đánh giá sự hài lòng của du khách nhằm phát huy hết những tiềm năng của du lịch cộng đồng Điện Biên  là hết sức cần thiết.

  1. Mô hình nghiên cứu

            Sự hài lòng của khách du lịch đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công của tiếp thị điểm đến bởi nó tác động đến hành vi lựa chọn điểm đến, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ và quyết định quay lại (Kozak, 2001). Theo Pizam, Neumann, Reichel (1978) và Oliver (1980) sự hài lòng của du khách là kết quả của sự tương tác giữa giá trị cảm nhận và mong đợi của du khách về điểm đến. Cadotte, Woodruff & Jenkins (1982) đã đưa ra định nghĩa “Sự hài lòng là sự so sánh của những kỳ vọng với những trải nghiệm”. Vận dụng khái niệm này vào lĩnh vực du lịch, có thể hiểu sự hài lòng của du khách là quá trình như sau: trước hết, du khách hình thành trong suy nghĩ của mình những kỳ vọng về điểm đến du lịch trước khi họ đi du lịch. Sau đó, họ sẽ trải nghiệm tại điểm đến nơi mà họ có thể cảm nhận được là tốt hay xấu. Du khách sẽ so sánh hiệu quả mà điểm đến mang lại bằng cách so sánh những gì mà họ kỳ vọng trước khi đi du lịch và những gì mà họ đã nhận được sau khi đã trải nghiệm tại điểm đến. Sự thỏa mãn của khách hàng chính là kết quả của sự so sánh này.

Các nghiên cứu trước đây về sự hài lòng của du khách chỉ ra rằng không có sự thống nhất chung  trong việc đo lường sự hài lòng. Theo Tribe & Snaith (1998), hiện nay có 4 mô hình đánh giá mức độ hài lòng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng: mô hình IPA (Importance-Performance Analysis), mô hình SERVQUAL (Service Quality), mô hình HOLSAT (Holiday Satisfaction), và mô hình SERVPERF (Service Performance). Trong đó SERVPERF là mô hình đơn giản, thích hợp cho việc đánh giá sự hài lòng vì không gặp phải vấn đề khi yêu cầu khách hàng đánh giá cả 2 phần kỳ vọng và cảm nhận (Cronin & Taylor, 1992; Jain & Gupta, 2004; Phạm & Kullada, 2009; Nadiri & Hussain, 2008). Jain & Gupta (2004) còn gợi ý rằng, mô hình SERVPERF hiệu quả hơn trong việc đánh giá sự hài lòng.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của du khách được Tribe & Snaith (1998) đưa ra mô hình HOLSAT bao gồm các yếu tố: tài nguyên thiên nhiên và điều kiện vật chất, môi trường, các dịch vụ ăn uống − tham quan – giải trí – mua sắm, chỗ ở, chuyển tiền, di sản văn hóa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hình 1: Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của du khách đối với du lịch cộng đồng tại Điện Biên

            Để đánh giá sự hài lòng của khách du lịch đối với sản phẩm du lịch cộng đồng tại Điện Biên, tác giả thu thập thông tin từ sách báo, các báo cáo, nghiên cứu trong và ngoài nước về mô hình đánh giá sự hài lòng của khách du lịch và xây dựng mô hình hồi quy với 7 biến độc lập được xây dựng để xác định yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách du lịch theo mô hình như sau:

Y = a0 + a1X1 +             a2X2 + a3X3 + a4X4 + a5X5 + a6X6 + a7X7 + ԑ

Với: Y: Sự hài lòng của du khách; a0……a7 là các hệ số hồi quy; X1……X7 là các biến phụ thuộc; ԑ là phương sai sai số ngẫu nhiên. Để kiểm định mô hình, đề tài thực hiện điều tra qua phiếu điều tra về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách du lịch đối với các sản phẩm du lịch cộng đồng tại Điện Biên. Đối tượng tham gia khảo sát điều tra được chọn ngẫu nhiên từ những khách du lịch đã trải nghiệm sản phẩm du lịch cộng đồng tại Điện Biên. Bảng hỏi được thiết kế gồm 48 câu hỏi, trong đó có 5 câu hỏi điều tra thông tin về khách du lịch, 42 câu hỏi đánh giá mức độ ảnh hưởng đến sự hài lòng và 1 câu hỏi đánh giá về mức độ hài lòng của khách du lịch đối với các sản phẩm du lịch cộng đồng tại Điện Biên. Trong đó sự hài lòng và các yếu tố được đánh giá theo thang đo Likert 5 điểm. (1-Rât hài lòng, 2-Hai lòng, 3-Bình thường, 4-Không hài lòng, 5-Rất không hài lòng). Tác giả đã thu được 216 bảng hỏi đạt yêu cầu với các đối tượng tham gia đa dạng về độ tuổi, giới tính, quê quán, nghề nghiệp và thu nhập.

  1. Kết quả nghiên cứu

* Kiểm định độ tin cậy của thang đo

Giá trị Cronbach Alpha được sử dụng để kiểm tra độ tin cậy của các thang đo. Các yếu tố CSHT4 và CLDV2 có giá trị Cronbach Alpha < 0,3 bị loại khỏi mô hình. Các yếu tố còn lại đều đảm bảo giá trị Cronbach Alpha > 0,3 và Cronbach Alpha if Item deleted < Total Cronbach Alpha của các nhóm yếu tố. Cronbach Alpha của các nhóm yếu  tố > 0,7 nên nhóm nhân tố đã chọn được coi là đảm bảo mức ý nghĩa cần thiết. Như vậy sau khi phân tích độ tin cậy của thang đo bằng phân tích Cronbah Alpha có 40 biến quan sát được giữ lại theo nhóm yếu tố.

Bảng 1: Kết quả đánh giá Cronbach Alpha

Mã hóa Biến Cronbach’s Alpha Số thang đo
TN Tài nguyên thiên nhiên 0,706 3
CSHT Cơ sở hạ tầng 0,822 10
MT Môi trường 0,819 4
DC Dân cư 0,881 4
CLDV Chất lượng dịch vụ 0,830 6
GIA Giá 0,820 7
DSVH Di sản v giá trị văn hóa 0,870 8
  Total 0,893 42

* Phân tích nhân tố khám phá EFA

Phân tích nhân tố khám phá được sử dụng để rút gọn tập hợp các biến quan sát thành một tập hợp nhỏ hơn và có ý nghĩa hơn.

Bảng 2: Kiểm định KMO và Bartlett

  Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.       ,772  
  Bartlett’s Test of Sphericity   Approx. Chi-Square   4819,867  
    Df         780  
          Sig.         ,000  

 

Bảng 3: Ma trận xoay các yếu tố

          Yếu tố      
    1 2 3 4 5 6 7
  DSVH3 ,773            
DSVH2 ,768            
DSVH1 ,747            
DSVH8 ,675            
DSVH4 ,643            
DSVH6 ,625            
DSVH5 ,620            
CSHT7              
DSVH7              
CSHT1   ,724          
CSHT9   ,680          
CSHT2   ,655          
CSHT8   ,610          
CSHT10   ,606          
CSHT6   ,597          
CSHT5   ,576          
CSHT3   ,554          
GIA4     ,763        
GIA2     ,762        
GIA1     ,741        
GIA3     ,710        
GIA6     ,667        
GIA7     ,621        
GIA5     ,555        
CLDV1       ,849      
CLDV3       ,842      
CLDV4       ,816      
CLDV5       ,767      
CLDV6       ,752      
DC3         ,803    
DC2         ,800    
DC4         ,790    
DC1         ,777    
MT3           ,823  
MT4           ,788  
MT2           ,737  
MT1              
TN2             ,720
TN3             ,667
TN1             ,560

 

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

  1. Rotation converged in 7 iterations.

Hệ số KMO = 0,772, đảm bảo các yêu cầu 0,5 <KMO <1; với mức ý nghĩa Sig. = 0,000 đáp ứng các điều kiện Sig. <0,005. Với mô hình ma trận xoay 7 yếu tố giải thích 59,532% biến động của tổng các biến. Kêt quả ma trận xoay các yếu tố bảo đảm yêu cầu hệ số tải (Hair & cộng sự, 2006) với số mẫu >100 và <350, hệ số tải của các phần tử phải lớn hơn 0,55 , và theo kết quả trên Bảng 3, các yếu tố CSHT.7, DSVH7, MT1 bị loại khỏi mô hình vì có hệ số tải <0,55.

            * Kết quả nghiên cứu

            – Kiểm định mô hình hồi quy

Bảng 3: Tóm tắt mô hình hồi quy
R R Square Adjusted R Square Durbin-Watson
.858a 0.737 0.734 1.821

Giá trị Adjusted R Square= 0,734 thể hiện rằng các nhân tố độc lập sẽ thể hiện được 73.4% sự biến thiên khi đánh giá về sự hài lòng của du khách. Đây là một tỷ lệ khá tốt.

Bảng 4: Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình hồi quy (Anova)
  Tổng bình phương Số bậc tự do Bình phương trung bình Giá trị kiểm định F Mức ý nghĩa
Hệ số hồi quy 199.677 5 39.935 301.754 .000b
Phần dư 71.333 539 0.132    
Tổng cộng 271.011 544      

Kiểm định ANOVA thể hiện ở bảng 4.16 cho thấy giá trị kiểm định F bằng 301.754 có mức ý nghĩa thống kê (sig.) là 0,000. Chứng tỏ giả thuyết H0 (tập hợp các biến độc lập không có mối liên hệ với biến phụ thuộc) bị bác bỏ. Vì thế, mô hình hồi quy được lựa chọn trên đây phù hợp.

– Mô hình hồi quy đa biến

      Bảng 5: Kết quả hồi quy tuyến tính      
    Hệ số chưa chuẩn Hệ số chuẩn     Thống kê đa cộng
Mô Hình   hóa hóa T Sig. tuyến  
    B Std. Error Beta     Tolerance VIF
  Hệ số tự do 3,727 0,025   148,769 0    
  DSVH 0,226 0,025 0,432 9,012 0 1 1
  CSHT 0,08 0,025 0,152 3,177 0,002 1 1
1 GIA 0,068 0,025 0,13 2,708 0,007 1 1
CLDV 0,204 0,025 0,389 8,115 0 1 1
 
  DC 0,153 0,025 0,292 6,093 0 1 1
  MT 0,128 0,025 0,245 5,111 0 1 1
  TN 0,11 0,025 0,211 4,398 0 1 1

Kết quả phân tích hồi quy đa biến cho thấy tất cả các biến độc lập đều có tương quan thuận với biến phụ thuộc HL và không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến (hê số Tolerance và hệ số phóng đại phương sai VIF đều nhỏ hơn 2). Từ mô hình cho thấy các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ, thái độ của dân cư, giá, di sản văn hóa đều ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê với sự hài lòng của khách du lịch tại các điểm du lịch cộng đồng Điện Biên. Trong đó di sản văn hóa, chất lượng dịch vụ là những yếu tố có ảnh hưởng mạnh hơn

Mô hình hồi quy chuẩn hóa các yếu tố như sau:

Y=0,432DSVH + 0,152CSHT + 0,13GIA + 0,389CLDV + 0,292 DC + 0,245MT + 0,211TN

  1. Kết luận

            Phát triển du lịch bền vững là xu hướng chung trên toàn thể giới. Đánh giá sự hài lòng của du khách đối với du lịch cộng đồng tại Điện Biên và các yếu tố ảnh hưởng cho thấy các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, chất lượng các dịch vụ, thái độ của dân cư, giá cả, di sản văn hóa đều có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê tới sự hài lòng của du khách trong đó di sản văn hóa, chất lượng các dịch vụ là những yếu tố có tác động mạnh hơn.

   ThS Phan Nam Giang