Hoạt động nghiên cứu khoa học

Lựa chọn trường mục tiêu trong Marketing địa phương

Ngày nay, các quốc gia thay vì vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh đã vận dụng lý thuyết marketing để phát triển địa phương của mình. Lịch sử phát triển kinh tế đã cho thấy nhiều quốc gia tuy không có nguồn tài nguyên và nhân lực dồi dào nhưng nhờ có chiến lược và chương trình marketing địa phương hiệu quả đã biến địa phương của mình thành những nơi phát triển bền vững. Các nước công nhiệp mới (NICs) ở Châu Á như Hàn Quốc, Singapore, Hong Kong,… là các ví dụ điển hình. Các quốc gia trên đã làm được điều này nhờ vận dụng quan điểm về marketing để phát triển và xây dựng thương hiệu địa phương. Nhiệm vụ trung tâm của marketing địa phương là: lựa chọn thị trường mục tiêu, định vị thương hiệu địa phương cho thị trường mục tiêu đã chọn, duy trì và phát triển thị trường mục tiêu thông qua việc xây dựng, phát triển và truyền đạt giá trị ưu việt mà thương hiệu cung cấp cho thị trường mục tiêu. Trong bài viết này sẽ đề cập đến cách thức lựa chọn đúng thị trường mục tiêu – Bước đầu tiên quan trọng quyết định hiệu quả của marketing địa phương.
1. Marketing địa phương và sự cần thiết của lựa chọn đúng thị trường mục tiêu trong marketing địa phương

a. Marketing địa phương và thương hiệu địa phương

Marketing địa phương là là một sự phối hợp các nguồn lực của địa phương nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng mục tiêu của địa phương (nhà đầu tư, kinh doanh, chuyên gia, khách du lịch, v..v…) và để đạt mục tiêu của địa phương là phát triển kinh tế cũng như gia tăng chất lượng cuộc sống cho mọi thành viên trong địa phương. Người làm marketing địa phương là tất cả các thành viên trong địa phương đó (chính quyền địa phương, cộng đồng kinh doanh, và công dân tại địa phương đó). “Sản phẩm” của địa phương bao gồm: Cơ sở hạ tầng; Đặc trưng hấp dẫn, Ấn tượng địa phương và chất lượng sống; Con người…

Về mặt phạm vi, marketing có thể ở tầm vi mô hay vĩ mô, tuy rằng các quan điểm về marketing thường tập trung vào chức năng “vi mô” hơn là chức năng “vĩ mô” của nó. Đứng về mặt vĩ mô, chức năng của marketing tập trung vào vấn đề phát triển kinh tế của một quốc gia, tỉnh, thành phố, như marketing hướng đến các “khách hàng” như: nhà đầu tư, nhà kinh doanh, marketing khách du lịch, marketing các chuyên gia, nguồn lao động có tay nghề cao, các nhân vật nổi tiếng vào địa phương mình. Tuy nhiên, khi đề cập đến marketing thì thương hiệu là đơn vị cơ bản để marketing. Một thương hiệu có thể là một sản phẩm hữu hình, một dịch vụ, một tỉnh, một thành phố, hay một quốc gia.

Như vậy, về mặt marketing, chúng ta có thể xem một quốc gia, một tỉnh/thành phố là một thương hiệu, và gọi là “thương hiệu địa phương” để phân biệt với thương hiệu sản phẩm hay dịch vụ của các đơn vị kinh doanh.

b. Sự cần thiết của lựa chọn đúng thị trường mục tiêu trong marketing địa phương

Thứ nhất, thị trường tổng thể mà marketing địa phương hướng đến bao gồm một số lượng rất lớn các đối tượng với những nhu cầu, đặc điểm và hành vi khác nhau. Mỗi nhóm đối tượng đó có những đòi hỏi, kỳ vọng riêng đối với các địa phương về môi trường, chính sách và mục tiêu của chính họ.

Thứ hai, bất kỳ một địa phương nào cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh các địa phương khác. Các địa phương cạnh tranh rất khác biệt nhau về khả năng phục vụ nhu cầu và ước muốn của những nhóm khách hàng khác nhau của thị trường.

Thứ ba, mỗi một địa phương thường chỉ có một hoặc một vài thế mạnh xét trên một phương diện nào đó trong việc thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của thị trường. Sẽ không có một địa phương cá biệt nào có khả năng đáp ứng được nhu cầu và ước muốn của tất cả khách hàng tiềm năng.

Vì vậy, để thu hút khách hàng có hiệu quả, duy trì và phát triển được thị phần, từng địa phương phải tìm cho mình những đoạn thị trường mà ở đó họ có khả năng đáp ứng nhu cầu và ước muốn của khách hàng hơn hẳn các địa phương cạnh tranh khác. Những đoạn thị trường như vậy sẽ được địa phương chọn làm thị trường mục tiêu. Để lựa chọn đúng thị trường mục tiêu, trước tiên phải tiến hành phân đoạn thị trường.

2. Cách thức lựa chọn đúng thị trường mục tiêu trong marketing địa phương

a. Phân đoạn thị trường/khách hàng

Cũng như marketing thương hiệu sản phẩm hay một dịch vụ, nhà marketing địa phương cần phải xác định thị trường hay khách hàng mục tiêu của địa phương mình. Theo quan điểm marketing, thị trường là tập hợp những khách hàng hiện có và tiểm ẩn. Thị trường mục tiêu của một địa phương có thể chia thành bốn nhóm khách hàng chủ yếu, đó là: các nhà đầu tư và kinh doanh; khách du lịch, hội nghị; người lao động; và các nhà xuất khẩu.

Thị trường bao gồm các nhà đầu tư, kinh doanh là một trong những thị trường ưu tiên hàng đầu của các địa phương đặc biệt là các nước đang phát triển. Thị trường này bao gồm các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài nước. Họ đến một địa phương để tìm kiếm cơ hội đầu tư hợp tác kinh doanh độc lập hay liên kết, liên doanh với các nhà đầu tư kinh doanh hiện tại của địa phương. Mục đích của nhóm khách hàng này là lợi nhuận đem lại cho công việc đầu tư, kinh doanh của họ. Vì vậy, họ quyết định đầu tư tại một địa phương nào đó nếu và chỉ nếu khi địa phương đó có khả năng và sẵn sàng giúp họ đạt được mục tiêu của mình.

Có nhiều cách thức mà các địa phương sử dụng để thu hút đầu tư về cho địa phương của mình như tổ chức các hội thảo về đầu tư, thành lập các tổ chức xúc tiến đầu tư, xây dựng và quảng bá các chính sách, các chương trình khuyến khích đầu tư như miễn thuế, dịch vụ miễn phí, v..v… Các tổ chức điển hình ở dạng này ở châu Á có thể kể đến như Tổ chức phát triển thương mại Hong Kong, Trung tâm xúc tiến đầu tư Cebu, Philippines, v..v…

Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng, các quốc gia, địa phương đếu có những chính sách thu hút đầu tư khác nhau tùy thuộc vào những mục tiêu của địa phương đó. Có địa phương thu hút vào ngành này nhưng lại hạn chế ngành nghề khác. Ví dụ, nếu địa phương muốn giải quyết nạn thất nghiệp gia tăng thì chính sách thu hút đầu tư vào các ngành nghề cần lực lượng lao động cao như ngành dệt, may, v..v.. Trong trường hợp địa phương cần phát triển công nghệ hiện đại, như công nghệ tin học, thì tìm cách thu hút các nhà đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực này,v..v…

Khách du lịch là thị trường mục tiêu thứ hai của các nhà marketing địa phương. Thị trường khách du lịch có thể chia thành hai nhóm chính, nhóm khách kinh doanh và không kinh doanh (khách du lịch thuần túy, thăm thân nhân, bạn bè). Nhóm kinh doanh bao gồm những người đến một địa phương nhằm vào mục đích kinh doanh như như tham gia các hội thảo kinh doanh, xem xét vị trí đầu tư, v..v… Nhóm khách du lịch kinh doanh thường được các địa phương tập trung nhiều trong các chương trình marketing đầu tư cho địa phương của mình hơn là nhóm khách du lịch thuần túy vì họ cũng là một kênh truyền tin thích hợp về vấn đề đầu tư.

Tuy nhiên, nhóm khách không kinh doanh cũng đem lại rất nhiều lợi ích cho địa phương trong vấn đề phát triển kinh tế như thu nhập, công ăn việc làm, thuế, thông qua các chi tiêu của họ trong quá trình họ lưu lại ở địa phương đó. Để làm tăng lợi ích này, các nhà marketing địa phương luôn tìm cách hấp dẫn họ để họ có thể chi tiêu nhiều hơn và kéo dài thời gian lưu trú của họ, cũng như kích thích nhiều du khách đến tham quan địa phương mình. Chính vì vậy, các địa phương đều có chiến lược thu hút khách du lịch kinh doanh và không kinh doanh thông qua các văn phòng xúc tiến du lịch và văn phòng xúc tiến hội thảo kinh doanh, cũng như nhiều chương trình quảng bá khác.

Cũng cần chú ý là các chiến lược marketing thực hiện không thống nhất cho từng địa phương khác nhau mà nó phục thuộc vào mục tiêu của từng địa phương. Có những địa phương tập trung vào khách du lịch ngắn ngày, chi tiêu ít trong thời gian du lịch nhưng với số lượng lớn. Có địa phương tập trung vào nhóm nhỏ khách du lịch nhưng thời gian lưu trú lâu, và chi tiêu lớn. Có địa phương chỉ tập trung vào những nhóm khách du lịch đặc biệt nào đó mà không khuyến khích một số nhóm khác.

Người lao động, các chuyên gia là thị trường mục tiêu thứ ba. Các địa phương tìm cách thu hút những người có những kỹ năng nào đó đến định cư tại địa phương mình. Dĩ nhiên mỗi địa phương có thể tập trung vào những nhóm người định cư mới này khác nhau. Các địa phương thường có xu hướng kích thích một số nhóm này nhưng lại ngăn cản một số nhóm khác.

Các lao động mà các địa phương thường thích thú và kích thích họ đến định cư tại địa phương của mình là những người có kỹ năng chuyên môn trong ngành nghề mà địa phương mình cần, ví dụ như các nhà quản trị, các chuyên viên trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật khác nhau. Cạnh tranh để có được những người lao động có kỹ năng không phải chỉ diễn ra trong các đơn vị sản xuất kinh doanh mà còn ở bất kỳ tổ chức nào, và các địa phương không phải là trường hợp ngoại lệ. Ví dụ, các địa phương ở khu vực châu Á thường có những chính sách khuyến khích những người được đào tạo và làm việc ở những nơi có trình độ khoa học cao trở về lại địa phương mình làm việc.

Các nhà xuất khẩu là thị trường mục tiêu thứ tư. Các nước đang phát triển thường tập trung vào chiến lược xuất khẩu đi liền với chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Hàn Quốc là một ví dụ điển hình cho việc sử dụng hiệu quả chiến lược này. Các địa phương thường tìm kiếm những tổ chức, doanh nghiệp có khả năng tìm kiếm thị trường xuất khẩu để gia tăng kim ngạch xuất khẩu của địa phương mình. Hơn nữa, xuất khẩu cũng là một phương thức hữu hiệu để để quảng bá thương hiệu địa phương ra thị trường quốc tế. Hàn Quốc với Samsung, LG, Đài Loan với Acer là những ví dụ điển hình. Vì vậy, đi đôi với việc kích thích các nhà xuất khẩu đến địa phương, các địa phương cũng tìm cách thúc đẩy xuất khẩu thông qua các chính sách ưu đãi xuất khẩu, các tổ chức hỗ trợ, xúc tiến xuất khẩu như tìm kiếm thị trường xuất khẩu, thông tin về thị trường thế giới, đưa ra những chính sách ưu đãi cho các công ty tại địa phương có khả năng xuất khẩu.

Bốn đoạn thị trường nêu trên được phân đoạn một cách rõ ràng với những đặc trưng khác nhau, tiếp theo nhà marketing địa phương sẽ tiến hành lựa chọn thị trường mục tiêu.

b. Lựa chọn đúng thị trường mục tiêu

Để lựa chọn đúng thị trường mục tiêu, trước tiên cần phải đánh giá và nhận dạng được mức độ hấp dẫn của chúng trong việc thực hiện mục tiêu của địa phương. Các tiêu chuẩn đánh giá mức độ hấp dẫn được liệt kê sau đây:

Quy mô và tốc độ tăng trưởng: Một đoạn thị trường được coi là hiệu quả nếu nó có đủ tầm cỡ để bù đắp lại những nỗ lực marketing không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai của địa phương. Vì vậy, việc xác định đúng đắn quy mô và khả năng tăng trưởng luôn được coi là vấn đề đầu tiên khi lựa chọn thị trường mục tiêu. Phân tích quy mô và sự tăng trưởng để lựa chọn thị trường mục tiêu không có nghĩa là chọn những đoạn thị trường có quy mô lớn nhất, mức tăng trưởng cao nhất.

Quy mô và mức tăng trưởng là tiêu chuẩn có tính tương đối. Các địa phương có tiềm lực lớn thường hướng đến các đoạn thị trường có quy mô lớn, bỏ qua các đoạn thị trường nhỏ. Ngược lại, các địa phương nhỏ thường tiếp cập với các đoạn thị trường có quy mô nhỏ, bị đối thủ cạnh tranh bỏ quan và không đòi hỏi quá nhiều tài lực của họ. Điều này nên làm khi đánh giá sức hấp dẫn về quy mô và mức tăng trưởng của đoạn thị trường, chúng ta cần nhận diện một cách khách quan trên cả hai phương hiện cơ hội và rủi ro.

Đoạn thị trường có quy mô và mức tăng trưởng cao luôn hứa hẹn mức tiêu thụ và lợi nhuận cao trong tương lai. Song, quy mô và mức tăng trưởng cao chắc chắn sẽ hấp dẫn nhiều địa phương có sức cạnh tranh mạnh. Hoạt động trên những đoạn thị trường đó sẽ là trở ngại đối với những địa phương nhỏ.

Hấp dẫn về cơ cấu thị trường: Một địa phương không phải là duy nhất trên thị trường mà còn có những địa phương cạnh tranh khác. Các chương trình và chính sách của họ không chỉ nhằm đáp ứng một loại khách hàng. Họ thường xuyên phải đối phó với các áp lực của cạnh tranh và sự đòi hỏi của khách hàng. Một đoạn thị trường có thể có quy mô và tốc độ tăng trưởng như mong muốn nhưng vẫn không hấp dẫn nếu cạnh tranh trong đoạn đó quá gay gắt hoặc quyền thương lượng của các nhóm khách hàng và các lực lượng khác là quá cao.

Mục tiêu và khả năng của địa phương: Một đoạn thị trường đạt được mức độ hấp dẫn theo cả hai tiêu chuẩn trên vẫn có thể sẽ bị loại bỏ nếu không ăn khớp với mục tiêu lâu dài và khả năng của địa phương. Địa phương cứ cố gắng theo đuổi sức hấp dẫn của các đoạn thị trường vượt quá khả năng và mục tiêu của mình, nguồn lực của địa phương sẽ bị phân tán, không tập trung cho các mục tiêu chiến lược – các mục tiêu dài hạn, quyết định sự phát triển bền vững của địa phương. Địa phương có thể quyết định theo đuổi một vài mục tiêu ngắn hạn khi gặp các cơ hội kinh doanh song phải tuân thủ nguyên tắc lấy ngắn nuôi dài, tránh khuynh hướng bóc ngắn cắn dài.

Nguồn lực cần thiết để khai thác được các cơ hội thị trường gồm: vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tài chính, nhân sự, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng marketing… Mặt khác, nó cũng phải được nhìn nhận trong trạng thái biến đổi và trong mối tương quan với địa phương cạnh tranh. Khi đánh giá, phân tích mục tiêu và nguồn lực của địa phương, cần nhìn nhận vấn đề trong trạng thái động, linh hoạt cùng với sự biến động của môi trường kinh tế xã hội.

Qua việc phân tích các tiêu chuẩn đánh giá sức hấp dẫn của các đoạn thị trường, có thể đưa râ kết luận về một đoạn thị trường được coi là hấp dẫn như sau: Một đoạn thị trường hấp dẫn phải là đoạn thị trường thể hiện được sự tương hợp giữa khả năng, chiến lược, mục tiêu của địa phương với quy mô thị trường và mức độ cạnh tranh trên đoạn thị trường đó. Tất cả các yếu tố đó phải được nhìn nhận ở trạng thái biến đổi và hướng vào tương lai. Nói cách khác, đoạn thị trường hấp dẫn phải bao gồm các khách hàng mà địa phương có khả năng thiết lập mối quan hệ lâu dài; những nỗ lực marketing của địa phương hứa hẹn đạt hiệu quả, một lợi thế cạnh tranh cao.

Sau khi đánh giá mức hấp dẫn của các đoạn thị trường, chúng ta có những phương án lựa chọn thị trường mục tiêu như sau:

* Chọn một đoạn thị trường duy nhất: Địa phương có thể chọn một đoạn thị trường duy nhất. Đoạn thị trường này cần đảm bảo các điều kiện sau: Có sẵn sự phù hợp tự nhiên giữa nhu cầu và sản phẩm của địa phương; Là đoạn thị trường chưa có địa phương cạnh tranh hoặc bị bỏ qua; Đoạn thị trường được chọn được coi là điểm xuất phát hợp lý, làm đà cho sự mở rộng chiến lược khai thác tiếp theo. Ví dụ: Hạ Long – Quảng Ninh có thể tập trung mọi nguồn lực sẵn có để khai thác những người có nhu cầu du lịch trên toàn thế giới dựa trên sản phẩm Vịnh Hạ Long – một trong những kỳ quan đẹp nhất thế giới hiện nay.

Phương án chọn thị trường mục tiêu duy nhất có lợi thế giúp địa phương chiếm lĩnh một vị trí vững chắc trên đoạn thị trường đó. Xét về lâu dài, họ sẽ được hưởng những lợi thế của địa phương tiên phong. Mặt khác, sự tập trung nỗ lực marketing chỉ vào một đoạn thị trường cho phép địa phương cung ứng được sản phẩm đủ mức độ khác biệt cần thiết nhờ hiểu rõ nhu cầu và ước muốn của khách hàng. Thị trường mục tiêu duy nhất là cách thức chọn thị trường mục tiêu được các địa phương nhỏ và đang phát triển áp dụng một cách phổ biến.

* Chuyên môn hóa tuyển chọn: Theo phương án này địa phương có thể chọn một số đoạn thị trường riêng biệt làm thị trường mục tiêu. Phương án này thích hợp với các địa phương có ít hoặc không có năng lực trong việc phối hợp các đoạn thị trường với nhau, nhưng từng đoạn đều chứa đựng những hứa hẹn về thành công. Ví dụ: những tỉnh có cửa khẩu như Lào Cai, Quảng Ninh, Sơn La… có thể lựa chọn đoạn thị trường là các nhà xuất khẩu đến đầu tư các khu công nghiệp, đồng thời thu hút đoạn thị trường là những lao động có tay nghề từ nơi khác tới làm việc tại các khu công nghiệp, sản xuất các sản phẩm phù hợp để xuất khẩu.

* Chuyên môn hóa theo đặc tính sản phẩm của địa phương (Cơ sở hạ tầng; Đặc trưng hấp dẫn, Ấn tượng địa phương và chất lượng sống; Con người…): Địa phương có thể tạo trung vào việc tạo một loại sản phẩm để đáp ứng cho nhiều đoạn thị trường. Ví dụ: Việt Nam tạo đặc trưng hấp dẫn là hình ảnh của một đất nước du lịch mến khách, một đất nước của nụ cười, với khẩu hiệu “Việt Nam – Điểm đến của thiên niên kỷ”. Sản phẩm về du lịch này hướng đến nhiều đoạn thị trường – các du khách của nhiều nước khác nhau trên thế giới. Việc áp dụng phương án này sẽ giúp địa phương dễ dàng hơn trong việc tạo dựng hình ảnh, danh tiếng khi cung ứng một loại sản phẩm chuyên dụng.

* Chuyên môn hóa theo đặc tính thị trường/khách hàng: Địa phương có thể chọn một nhóm khách hàng riêng biệt làm thị trường mục tiêu và tập trung nỗ lực vào việc thỏa mãn nhu cầu đa dạng của nhóm khách hàng đó. Ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai đã thực hiện marketing địa phương nhằm thu hút và thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, kinh doanh vào các khu công nghiệp lớn thông qua cơ sở hạ tầng thuận lợi, đồng thời tạo ấn tượng địa phương, cơ chế chính sách thông thoáng cởi mở và môi trường sống chất lượng với hệ thống trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí…. Việc áp dụng phương án này sẽ giúp địa phương thuận lợi trong việc tạo dựng danh tiếng trong một nhóm khách hàng. Đặc biệt, khi uy tín của thương hiệu địa phương đã khắc họa trong tâm trí khách hàng thì việc phát triển những sản phẩm mới cho nhóm khách hàng này sẽ trở nên hết sức dễ dàng.

* Bao phủ thị trường: Với phương án này, mọi khách hàng đều là thị trường mục tiêu của địa phương. Địa phương sẽ đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng về những chủng loại sản phẩm họ cần. Thường chỉ có các địa phương lớn, có nguồn lực mạnh mới áp dụng phương án này. Ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hà Nội có thể hướng đến cả 4 đoạn thị trường đã nêu trên để thu hút và khai thác thành công.

Tùy thuộc vào mục tiêu, đặc điểm, nguồn lực của địa phương và tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển cụ thể mà địa phương sẽ chọn cho mình một phương án phù hợp nhất. Việc lựa chọn đúng thị trường mục tiêu trong marketing địa phương sẽ giúp địa phương xác định chính xác đối tượng khách hàng mà địa phương hướng tới để phục vụ, trên cơ sở khai thác và sử dụng các nguồn lực địa phương một cách có hiệu quả. Đồng thời định vị thương hiệu địa phương có vị trí đặc biệt, ấn tượng, nhất quán trong tâm trí của khách hàng mục tiêu.

3. Lựa chọn thị trường mục tiêu trong marketing địa phương tại Việt Nam

Là một nước đang phát triển tại Châu Á, Việt Nam đã và đang thu hút được các nhà đầu tư quan tâm tới đầu tư, sản xuất kinh doanh, là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch trên toàn thế giới. Tuy nhiên, để Việt Nam phát triển nhanh và mạnh hơn nữa, chúng ta cần chú ý đến đoan thị trường các chuyên gia có trình độ cao ở đẳng cấp quốc tế đến Việt Nam làm việc, từ đó chúng ta sẽ tiếp cận được với những kỹ năng, trình độ của các nước phát triển, tạo những cú huých lớn giúp Việt Nam có những bước tiến lớn. Để làm được điều đó, chúng ta cần phải tạo ra một “sản phẩm” về cơ chế chính sách thu hút nhân tài, tạo môi trường sống chất lượng cho bản thân các chuyên gia và gia đình của họ để họ yên tâm công tác và có những cống hiến xứng đáng.

Mặt khác, Việt Nam nên khuyến khích các nhà xuất khẩu đến đầu tư, xây dựng cơ sở kinh doanh, sản xuất các mặt hàng có khả năng xuất khẩu. Đồng thời, thúc đẩy xuất khẩu thông qua các chính sách ưu đãi xuất khẩu, thành lập các tổ chức hỗ trợ, xúc tiến xuất khẩu như: tìm kiếm thị trường xuất khẩu sang các nước khác, cập nhật thông tin về thị trường thế giới, đưa ra những chính sách ưu đãi cho các công ty có năng lực xuất khẩu của Việt Nam.

Dưới góc độ marketing địa phương ở cấp tỉnh, thành phố với những lợi thế, đặc trưng, nét văn hóa, giá trị… khác nhau của 63 tỉnh, thành, song các tỉnh, thành phố ở Việt Nam chủ yếu thực hiện chiến lược phát triển địa phương dựa vào các thế mạnh về vị trí địa lý, các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; một số tỉnh thì tạo ra những cơ chế chính sách ưu đãi, thông thoáng, trải thảm đỏ để thu hút các nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc dựa vào những thế mạnh sẵn có vẫn chủ yếu áp dụng lý thuyết về lợi thế cạnh tranh để phát triển, chưa thực sự vận dụng lý thuyết marketing địa phương để làm nền tảng phát triển.

Để các tỉnh, thành phố Việt Nam phát triển và xây dựng thương hiệu địa phương sắc nét thì cần phải trải qua đúng trình tự: từ việc lựa chọn đúng thị trường mục tiêu, định vị thương hiệu cho thị trường mục tiêu đã chọn, đến xây dựng, phát triển và truyền đạt giá trị ưu việt hơn so với các địa phương khác mà thương hiệu địa phương cung cấp cho thị trường mục tiêu.

Cần lưu ý rằng, để lựa chọn đúng thị trường mục tiêu, mỗi tỉnh, thành phố phải căn cứ trên mục tiêu chiến lược, phát triển kinh tế – xã hội, xem xét những mặt còn yếu, còn thiếu của địa phương, xem xét giá trị đặc biệt nào mà địa phương hướng tới để lựa chọn cho mình một hoặc một vài đoạn thị trường mục tiêu nhằm hướng đến khai thác. Từ đó, góp phần xây dựng thương hiệu địa phương của tỉnh, thành phố vững mạnh và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh, mạnh và bền vững tại mỗi địa phương.

Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng, đan xen những cơ hội và thách thức cùng với môi trường cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt, trong đó không tránh khỏi sự cạnh tranh thu thút “khách hàng” từ các địa phương khác, để có thể cạnh tranh thành công, hoàn thành các mục tiêu, sứ mệnh và tầm nhìn của mỗi địa phương, các tỉnh, thành phố tại Việt nam không thể không vận dụng mạnh mẽ lý thuyết lựa chọn đúng thị trường mục tiêu trong marketing địa phương vào xây dựng, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ./.

ThS. Hoàng Xuân Trọng
Khoa Kinh tế, Đại học Tây Bắc.

Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu (2007, 2008) đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong đó có Việt Nam. Việt Nam bị ảnh hưởng chậm hơn một nhịp so với các quốc gia khác, lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh nhất được coi là hoạt động xuất khẩu.

Tóm tắt:Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong đó có Việt Nam. Việt Nam bị ảnh hưởng chậm hơn một nhịp so với các quốc gia khác, lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh nhất được coi là hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2008 đến đầu 2010 đã có những biến động mạnh, với phạm vi bài viết này nhóm tác giả đã tổng hợp và phân tích những lĩnh vực xuất khẩu bị ảnh hưởng đồng thời đề xuất một số giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu trong giai đoạn hậu khủng hoảng.

1. Những vấn đề chung về khủng khoảng tài chính toàn cầu và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

Toàn cầu hoá bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều ngu cơ trong đó có nguy cơ khủng hoảng toàn cầu. Sự thay đổi của các thị trường tài chính với mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước, mỗi điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều dẫn tới khả năng khủng hoảng.

Khủng hoảng kinh tế (Bách khoa toàn thư) là sự suy giảm của hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xuất thừa sẽ làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu dùng hàng hóa. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung của xã hội, nhu cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã gây ra sức ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là một phần của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt hại lớn nhất vì các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển qua những nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan còn khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng khái quát lại có một số nguyên nhân chính: Theo chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chính là mâu thuẫn giữa khả năng sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của người dân; Sự mất cân bằng phát triển trong nền kinh tế thế giới, sự nổi lên rất mạnh của một số nền kinh tế phát triển khổng lồ như: Mỹ, Nhật, Nga, Anh, Đức, Pháp,… bên cạnh đó là các nước đang phát triển với trình độ phát triển còn chưa cao; Do chủ trương đẩy mạnh tư nhân hóa nền kinh tế, giảm bớt tối đa các thể chế và sự can thiệp của nhà nước dẫn đến sự buông lỏng quản lý giám sát đối với hoạt động của các tập đoàn tài chính ngân hàng và sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. Khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến những vấn đề kinh tế, tài chính xã hội, môi trường… vượt khỏi tầm kiểm soát của quốc gia.

Nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 là do những tồn tại và bất ổn của kinh tế Mỹ như: Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân thấp, nợ nước ngoài khổng lồ; khủng hoảng nợ dưới chuẩn; khủng hoảng bất động sản. Khủng hoảng tài chính Mỹ bắt nguồn từ việc các ngân hàng nước này quá dễ dãi, tùy tiện khi cho khách hàng vay tiền để mua bất động sản qua các hoạt động cho vay không đạt tiêu chuẩn. Có thể nói một cách đơn giản là từ lâu nay, đa số người dân vay tiền từ các ngân hàng để mua nhà với thời hạn hợp đồng từ 10 – 30 năm. Nhưng trong khoảng 10 năm trở lại đây thị trường nhà đất phát triển mạnh do các ngân hàng và các tổ chức tài chính cho vay ào ạt tiếp thị tạo ra những hợp đồng cho vay không đạt tiêu chuẩn và khuyến khích cả những người không có đủ khả năng vay tiền để mua nhà. Ngoài ra, các tổ chức cho vay còn sáng chế ra những hợp đồng bắt đầu với lãi suất thấp trong những năm đầu và sau đó thực hiện với lãi suất thị trường. Hậu quả một số hợp đồng cho vay khó đòi được nợ. Việc mua bán các loại chứng khoán phái sinh được đảm bảo bằng những hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp này chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Cuộc khủng hoảng kinh tế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế của một số nước, từ những nước phát triển đến các nước đang phát triển. Sản xuất bị đình trệ, tiêu dùng giảm sút do người dân “thắt lưng buộc bụng” đã làm phá sản hàng loạt tập đoàn lớn cũng như những công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu đã tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, “bong bóng” nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm cho các tổ chức tài chính này gặp nguy cơ như các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ.

Hầu hết các khu vực trên thế giới đều bị tác động mạnh và rơi vào tình trạng suy thoái toàn cầu trong năm 2009. Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái, Nhật Bản, Tây Âu tăng trưởng âm, các nước công nghiệp rơi vào tình trạng của Nhật Bản những năm 90 đó là lãi suất 0% và giá cả giảm xuống không có tăng trưởng. Các nền kinh tế có mức tăng trưởng âm đứng đầu là Anh (-1,3%), Đức (-0,8%), Mỹ và Tây Ban Nha (-0,7%), một số nước như Nga cũng chỉ tăng trưởng khoảng 3,5%, Trung Quốc khoảng 8,5%.

2. Một số tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến kinh tế Việt Nam
Qua quá trình nghiên cứu, cuộc khủng hoảng đã có tác động nhất định đến thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam, vì kinh tế Mỹ là một nền kinh tế lớn chiếm 30% tổng sản lượng chu chuyển vốn của thị trường thế giới. Trong điều kiện tất cả các quốc gia đều đã hội nhập nên bất cứ hoạt động nào của nền kinh tế đều có ảnh hưởng nhất định tới nền kinh tế thế giới. Ngoài ra, trong giai đoạn này Việt Nam còn chịu tác động của lạm phát (trên 20%/năm) dẫn đến Việt Nam vừa phải kiềm chế lạm phát vừa phải chống đỡ để thoát khỏi khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này tác động đến kinh tế Việt Nam trên một số mảng cơ bản: Lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng dẫn đến nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp tăng, làm cho người dân dự đoán đồng USD giảm nên họ đã rút đồng USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD mua tiền Việt Nam gửi vào,…

Nếu như cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng ngay lập tức tới các nền kinh tế hùng mạnh khác, thì cơn bão này đến Việt Nam chậm hơn 1 nhịp. Nếu như sức tàn phá của cuộc khủng hoảng ở hầu hết các nước thể hiện đầu tiên và rõ nét nhất là hệ thống tài chính, ngân hàng, thì ở Việt Nam lại thể hiện trước hết là ở lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sức ảnh hưởng mạnh nhất lại đè lên vai hàng triệu người nông dân, thợ thủ công tham gia sản xuất hàng xuất khẩu.

3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam chủ yếu trong các lĩnh vực:

3.1. Hoạt động xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu
Trước khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sản phẩm dầu thô xuất khẩu chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001 – 2006 sau đó giảm dần. Sự sụt giảm là do các mỏ dầu đã cạn kiệt trong khi việc thăm dò và mua các mỏ dầu mới của các nước khác không mấy tiến triển khi xảy ra suy thoái.
Nhiều nền kinh tế lớn bắt đầu từ Nhật, Nga, EU lâm vào tình trạng suy thoái, Mỹ chính thức lâm vào suy thoái từ tháng 12/2007 thì giá dầu thô sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng tới mặt hàng dầu của Việt Nam, đang từ ngưỡng cao xuống còn 50 USD/thùng. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn suy thoái khiến giá dầu giảm mạnh, giá dầu giảm tác động đến nguồn thu từ dầu mỏ Việt Nam. Tuy không chịu ảnh hưởng về thị trường nhưng chịu ảnh hưởng về giá. Kim ngạch xuất khẩu nhóm này trong năm 2008 đạt gần 5 tỷ USD giảm 40,1% tương đương 3,35 tỷ USD, trong đó giảm do giá giảm 4,83 tỷ USD và tăng do lượng khoảng 1,48 tỷ USD. Lượng dầu thô xuất khẩu năm 2008 là 14,5 triệu tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009 xuống còn 12 triệu tấn, năm 2010 còn 11 triệu tấn tương đương với việc làm giảm kim ngạch từ 11,3 tỷ USD năm 2008 xuống còn 7,2 tỷ USD năm 2009, 6,6 tỷ USD năm 2010. Mức giá dự tính dự tính sẽ giao động ở mức trung bình khoảng 70 – 80 USD/thùng, thấp hơn 22 USD/ thùng so với giá bình quân xuất khẩu năm 2008.

Về than đá, cũng sẽ giảm dần do chủ trương kiểm soát chặt chẽ xuất khẩu tài nguyên, mức xuất khẩu than duy trì 23 triệu tấn năm 2008 xuống mức 20 triệu tấn năm 2009 và 18 triệu tấn năm 2010. Dự kiến kim ngạch năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD.

3.2. Hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản
Do kinh tế Việt Nam đã mở cửa hội nhập khá sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới nên không thể tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này. Hoa Kỳ , EU, Trung Quốc là những thị trường quan trọng, có sức tiêu thụ lớn hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam.

Trước khủng hoảng hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bị cạnh tranh ngày càng khốc liệt bởi hàng xuất khẩu cùng loại của một số nước, hơn nữa khả năng sản xuất mặt hàng nông, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn, còn vấp phải nhiều rào cản thương mại quốc tế và mức tăng tỷ giá trong những tháng đầu năm 2009 đã làm cho khả năng xuất khẩu năm giảm hơn so với năm 2008.

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông, lâm, thủy sản chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng lên từ 619 triệu USD (năm 2001) đến 1,8 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2008. Khi khủng hoảng tài chính, tín dụng xảy ra, kinh tế Mỹ và các nước EU gặp khó khăn sức tiêu dùng giảm nên hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường lớn này gặp khó khăn. Những tác động này đã bắt đầu bộc lộ từ giữa tháng 9 năm 2008, xuất khẩu chững lại giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản đều giảm so với các tháng trước, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 9/2008 đạt 1,45 tỷ USD tăng 32,6% so với tháng 9/2007 và giảm 11% so với tháng 8/2008.

3.3. Nhóm hàng công nghiệp chế biến
Năm 2008, do chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới nên hoạt động xuất khẩu diễn biến không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp thuận lợi về giá, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm trong những tháng cuối năm. Nhu cầu của thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn đặt hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ vào Mỹ và EU đều giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào không giảm thậm chí còn tăng cao. Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 64,8 tỷ USD, trong đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, 45,2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là hàng nông, lâm, thuỷ sản.

Nhóm hàng công nghiệp chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu do nhu cầu của các mặt hàng này giảm mạnh. Trong những tháng đầu năm 2009, xuất khẩu các mặt hàng dệt may, da giày, đồ gỗ đều gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, các đơn hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ, giày dép vào Mỹ và EU đều giảm, nhiều hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ mậu dịch của các nước được dựng lên. Chi phí đầu vào phục vụ cho sản xuất vẫn tăng cao như lương công nhân và lãi suất ngân hàng. Tuy nhiên đến tháng 5, tháng 6/2009 kinh tế thế giới đã bắt đầu phục hồi kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 đạt 20,2 tỷ USD giảm 47% so với năm 2008. Lĩnh vực công nghiệp, mặt hàng dệt may đạt 9,06 tỷ USD giảm 0,6% so với năm 2008, da giày đạt khoảng 4,1 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ với nhiều nỗ lực đạt khoảng 2,7 tỷ USD trong năm 2009.

4. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hậu khủng hoảng
Chính phủ cần điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu, điều chỉnh chính sách thuế linh hoạt hỗ trợ tối đa cho sản xuất trong nước thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu.

Phát triển nội lực, giữ vững thị trường trong nước để làm bàn đạp cho chiến lược phát triển xuất khẩu.
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu giảm sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống. Đầu tư tìm kiếm các thị trường mới nhiều tiềm năng đồng thời vẫn phải chú trọng vào thị trường nội địa vì đây là thị trường căn bản và an toàn nhất.

Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên cơ sở nâng cao chất lượng giảm giá thành.
Tăng cường công tác dự báo thông tin về thị trường, mặt hàng các điều kiện thương mại.

Giảm bớt các thủ tục rườm rà trong hoạt động xuất khẩu để thu hút đầu tư và khuyến khích xuất khẩu.

Cơ cấu lại các mặt hàng xuất khẩu tăng cường xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến vì đây là các mặt hàng mang lại giá trị kinh tế cao.

Kết luận
Nhìn chung cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong giai đoạn 2008 – 2009 đã tác động đến kinh tế Việt Nam, thể hiện rõ nhất qua tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2007 ở mức cao nhất từ trước đến nay 8,5% nhưng đến năm 2008 kinh tế Việt Nam bắt đầu lâm vào khủng hoảng tốc độ tăng trưởng kinh tế xuống còn 6,23%, năm 2009 là 5,3%. Trong đó, hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng mạnh nhất, đây là hoạt động đóng góp khoảng 60% vào tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam. Trong năm 2009 kim ngạch xuất khẩu đạt 56,5 tỷ USD giảm 9,9% so với năm 2008. Mặc dù đến cuối năm 2009 nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đã cơ bản thoát khỏi khủng hoảng nhưng vẫn chưa khắc phục được hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng này để lại. Vì vậy, trong giai đoạn tới nước ta cần thực hiện các giải pháp nhằm ổn định và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cũng như tăng trưởng kinh tế.

Nhóm tác giả:

Ths. Nguyễn Thị Lan Anh – GV. Trưởng khoa Kinh tế
SV. Vũ Thị Tâm – K48KT
SV. Nguyễn Thị Phượng – K48KT

Xu hướng phát triển kinh tế thế giới và Việt Nam (kỳ 1)

Thế giới và Việt Nam đang và sẽ tiếp tục đối diện với nhiều vấn đề lớn, phức tạp, kéo dài và liên quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội, cả cấp vĩ mô và vi mô; Bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm gần đây càng tạo thêm sức ép bộc lộ và cơ hội giải quyết nhiều vấn đề này.

Thế giới và Việt Nam đang và sẽ tiếp tục đối diện với nhiều vấn đề lớn, phức tạp, kéo dài và liên quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội, cả cấp vĩ mô và vi mô; Bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm gần đây càng tạo thêm sức ép bộc lộ và cơ hội giải quyết nhiều vấn đề này.

1. Bối cảnh và xu hướng kinh tế thế giới

Nền kinh tế thế giới trong những năm cuối thế kỷ 20 và các thập niên đầu thế kỷ 21 đã, đang và sẽ có những xu hướng phát triển đặc trưng chủ yếu sau:

1.1. Tự do hóa và đa cực hóa.

Thập kỷ 90 này được đánh dấu bằng sự kết thúc chiến tranh lạnh và khởi đầu cho làn sóng đổi mới tư duy toàn cầu với sự thắng thế của xu hướng tăng cường hòa bình, đối thoại và hợp tác vì sự phát triển kinh tế giữa các nước. Đồng thời, thế giới hiện nay đang dấy lên trào lưu mới đề cao tự do hóa trong các lĩnh vực kinh tế, và từ đó lan sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Những nét nổi bật của trào lưu tự do hóa kinh tế là:

1. Chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới và hoàn thiện hơn nữa trong mỗi nước cơ chế kinh tế thị trường mở làm nền tảng cho mọi hoạt động và giao lưu kinh tế cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô, trong phạm vi công ty, quốc gia, khu vực và quốc tế. Nếu trước thập kỷ 90 này chỉ có 1/6 số nước trên thế giới chấp nhận cơ chế kinh tế thị trường, thì nay, nó được tôn vinh và được coi là tài sản chung của nhân loại, là định hướng của các nền kinh tế chuyển đổi và các nền kinh tế đang phát triển khác trên toàn cầu. Trong các nước đã xây dựng nền kinh tế thị trường từ lâu, cũng đang có những khởi động mới, nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả vận hành của các nguyên tắc và thiết chế thị trường mở.

2. Làn sóng tư nhân hóa và cổ phần hóa đang lan rộng toàn cầu, bao quát không chỉ các nước chuyển đổi, các nước đang phát triển châu Á đang bị khủng hoảng tài chính – tiền tệ, mà còn cả ở các nước phát triển (ở nước Nga tỷ trọng kinh tế thuộc sở hữu nhà nước đã giảm từ 90% xuống còn 49%). Các lĩnh vực kinh doanh độc quyền đang được thu hẹp, bao gồm cả độc quyền nhà nước với tư nhân, cũng như độc quyền của tư bản trong nước với tư nhân nước ngoài.

3. Vai trò kinh tế của nhà nước được chuyển dịch theo hướng giảm can thiệp hành chính, trực tiếp, để chuyển sang phương thức can thiệp gián tiếp, có tính định hướng và ít điều chỉnh hơn. Vai trò đầu tư của nhà nước ngày càng giảm xuống hoặc được định hướng hỗ trợ phát triển tư nhân.

4. Các dòng chảy thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư quốc tế ngày càng được tự do hóa cả trong phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. Hiện tại có khoảng 50% tổng sản lượng thế giới được thực hiện trong trao đổi quốc tế so với 30% của năm 1980.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại trong các khoảng thời gian và mức độ nhất định những giới hạn của sự tự do hoá mậu dịch và đầu tư thông qua các hình thức bảo hộ thuế quan. Phải từ năm 2020 – 2030 thì mức mở cửa, tự do hóa của các nước mới thực sự trở nên phổ biến và “hết cỡ”.

Trên cơ sở tự do hóa, xu hướng đa cực hóa cũng đang trở thành tuyên ngôn của trật tự mới về kinh tế quốc tế và quốc gia được biểu hiện qua các khía cạnh:

Thứ nhất: Đa cực hóa về trung tâm tăng trưởng quốc tế và đa dạng hóa các đồng tiền cực mạnh của thế giới. Thay vì thế giới xoay quanh hai cực với hai siêu cường là Mỹ và Liên Xô trước kia, đang xuất hiện các trung tâm, các cực tăng trưởng mới mà về triển vọng trung hạn có thể cạnh tranh ngang ngửa với Mỹ: EU, Nhật, Trung Quốc (bao gồm cả Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Macao và có thể sẽ cả Đài Loan). còn Liên bang Nga với SNG, hay ấn Độ cũng như Brazin… cũng sẽ vươn mình lên những tầm cao sứ mạng mới trong tương lai không quá xa. Thời đại đồng USD là chúa tể duy nhất trên thị trường tiền tệ thế giới đang suy tàn cùng với sự xuất hiện đồng EURO và ý tưởng quốc tế hóa cao hơn đồng Yên Nhật.

Thứ hai: Đa dạng hóa các mô hình phát triển, đa phương hóa việc quản lý và giải quyết các vấn đề của mỗi quốc gia cũng như quốc tế. Mặc dầu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bị thực tế bác bỏ, và cơ chế thị trường mở ngày càng chiếm ưu thế, song trên toàn thế giới đang và sẽ còn chứng kiến sự nở rộ của các mô hình phát triển kinh tế khác nhau: mô hình Mỹ, mô hình Thụy Điển, mô hình Hà Lan, mô hình Nhật và một số nước Đông Nam Á, mô hình Nam Á, mô hình Niu Di Lân và gần đây đang xuất hiện mô hình Trung Quốc, không có mô hình nào hoàn hảo và thích hợp đối với mọi quốc gia. Vấn đề then chốt cho một nền kinh tế thành công là mô hình được lựa chọn phải phù hợp cả với bối cảnh quốc tế, lẫn các điều kiện lịch sử cụ thể trong nước, đồng thời các nhà lãnh đạo và quản lý của nước đó phải làm cho nó phù hợp nhất với lý thuyết mà họ ưa thích.

Thế giới cũng đang đặt ra nhu cầu và tạo điều kiện thực hiện đa phương hóa việc quản lý và giải quyết các vẫn đề đặt ra trong quá trình phát triển của một quốc gia, của mỗi khu vực và toàn cầu (nhất là các vấn đề tài chính, tiền tệ, công nghệ, môi sinh, phòng chống tệ nạn xã hội và tội phạm…). Đã chấm dứt thời mà mỗi nước đóng cửa để tự giải quyết những vấn đề phát triển của mình, dù đó là vấn đề nhỏ nhất và nước đó là mạnh nhất thế giới.

Thứ ba: Đa cực hóa các trung tâm tăng trưởng quốc gia. Bên cạnh việc mở rộng các trung tâm hiện có, ngày càng xuất hiện các trung tâm mới đầy năng động trong mỗi nước; hơn nữa, chúng có xu hướng chuyển dịch về các vùng biên giới để hình thành những khu vực “tam giác”, “tứ giác phát triển”, khai thác được cùng lúc các lợi thế so sánh và thị trường của nhiều nước láng giềng cùng chung biên giới, hoặc không. Những khu vực này xuất hiện ngày càng nhiều ở châu Á, nhất là khu vực Đông Nam Á và Nam Á.

Thứ tư: Đa dạng hóa phạm vi sản xuất – kinh doanh, các mặt hàng, ngành, nghề chủ lực, nhất là các ngành và mặt hàng hướng xuất khẩu. Đa dạng hóa các bạn hàng và thị trường của mỗi doanh nghiệp, quốc gia, khối kinh tế.

Thứ năm: Đa dạng hóa thành phần kinh tế, cũng như phối kết hợp ngày càng linh hoạt và đa sắc hơn các chính sách kinh tế trong cùng một thời điểm và khu vực địa lý kinh tế. Ranh giới sự phân biệt ngày càng được xóa nhòa hoặc “mềm hóa”, kể cả không được phép áp dụng cứng nhắc, kéo dài hay đối lập nhau giữa các dự án đầu tư nhà nước – tư nhân, giữa các chính sách hướng nội với hướng ngoại, giữa các chính sách thắt chặt – nới lỏng, giữa sản xuất với buôn bán – tiêu dùng và ngay cả giữa kế hoạch với thị trường.

1.2. Khu vực hóa và toàn cầu hóa

Xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa đang và sẽ ngày càng trở nên rõ nét, bao quát và chi phối toàn diện các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội quốc gia và quốc tế, với các biểu hiện và yêu cầu:

1. Tăng cường sự đan xen và phối hợp chính sách giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực, cũng như toàn cầu.
2. Gia tăng khối lượng trao đổi quốc tế trước hết trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, dịch vụ và lao động.
3. Gia tăng các yêu cầu và hoàn thiện các định chế quốc tế mang tính chất khu vực và toàn cầu quản lý các quá trình phối hợp và trao đổi đó. Gia tăng sức mạnh và khả năng giải quyết các vấn đề quốc gia, khu vực và toàn cầu
4. Có sự đồng nhất ngày càng cao giữa các yêu cầu hội nhập tiểu khu, khu vực, với hội nhập toàn cầu. Xu thế các tổ chức khu vực hóa mở kiểu APEC sẽ tăng lên; Bên cạnh đó cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn các loại Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, khu vực và xuyên khu vực. Đồng thời sẽ ngày càng đậm nét hơn xu hướng hội tụ cả về mô thức tổ chức các khối kinh tế khu vực, cũng như về các yêu cầu chỉ tiêu phát triển kinh tế – tài chính – tiền tệ chủ yếu của các nước thành viên mà EMU (Liên minh kinh tế – tiền tệ châu Âu) là điển hình nhất.

EU đang ngày càng trở thành khuôn mẫu hướng tới của hầu như tất cả trên 20 tổ chức hợp tác kinh tế khu vực lớn nhất trên toàn cầu – nói cách khác “mọi con đường của các tổ chức khu vực đều dẫn tới EU”. Trong bản thân EU đang đặt ra những tiêu chuẩn ngày càng đồng bộ và rất ngặt nghèo để các nước thành viên có thể tham dự EMU, nhất là các tiêu chuẩn về mức nợ, mức lãi suất, mức thâm hụt ngân sách, mức lạm phát và sẽ là mức thuế… Tất cả đang tạo điều kiện hội tụ và “đồng nhất hóa” hơn giữa các môi trường kinh tế trong nước, trong khu vực và trong phạm vi toàn cầu.

Có thể nói, bất chấp những biến đổi thăng trầm trong các nền kinh tế và khu vực cụ thể, bất chấp những “xung khắc” tạm thời và ngày càng mỏng manh giữa xu hướng khu vực hoá với xu hướng toàn cầu hoá, những nỗ lực và thành quả thúc đẩy xu hướng hướng tới một sự hội nhập ngày càng đầy đủ hơn và rộng lớn hơn vẫn đang và sẽ được tiếp tục không hề suy giảm. Khu vực hoá ngày càng biến thành “phòng chờ” để các nước tham dự vào toàn cầu hoá. Xu hướng này đang bao quát hầu hết các nước trên thế giới, mà trước hết là các nước lớn, các nền kinh tế quan trọng. Cả hai hệ thống tài chính và thương mại đang liên tục mở rộng, và nhân loại đang thực sự bước vào kỷ nguyên của các thị trường toàn cầu được kiểm soát tập thể.

1.3. Tái cơ cấu các sản phẩm, các công ty và các nền kinh tế trên cơ sở những công nghệ mới về chất

Nền đại công nghiệp cơ khí với các công nghệ và mô hình tiêu dùng truyền thống đang đi đến những giới hạn cuối cùng, do vấp phải:

– Những điều kiện khách quan về tài chính (chẳng hạn, đến khoảng năm 2040- 2045, giọt dầu mỏ cuối cùng của thế giới sẽ bị vét lên- chấm dứt nền văn minh công nghiệp dựa trên dầu mỏ).

– Những giới hạn về môi trường, về chi phí sản xuất.
– Những giới hạn thị trường và xã hội mà chúng dựa vào.
– Những giới hạn nội tại của bản thân các công nghệ và nền sản xuất đó.

Cuộc cách mạng công nghệ lần 3 đang định hình với các đặc trưng mới về chất như:

– Có tính tự động hoá cao, là sự kết hợp giữa công nghệ vi điện tử, công nghệ tin học, công gnghệ sinh học, công nghệ vũ trụ và đáy đại dương cùng các công nghệ chế biến sâu không có phế liệu.
– Sử dụng nguyên vật liệu mới có khả năng tái sinh, không gây ô nhiễm môi trường.
– Làm hài hoà quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Đặt con người vào trung tâm sự tăng trưởng, trí tuệ hoá lao động và giải phóng con người khỏi lao động đơn điệu, độc hại cũng như những giới hạn sinh lý cá nhân khách quan.

Tóm lại, đó là mô hình kinh tế- công nghệ nhân đạo hơn, trí tuệ hơn, có khả năng tự bảo vệ, vì thế hiệu quả và bền vững hơn. Cùng với việc tạo ra những công nghệ mới, đang xuất hiện những điều kiện kinh doanh và cơ cấu tiêu dùng mới. Thế giới ngày càng trở thành mạng lưới dày đặc và nhạy bén hơn các quan hệ giao tiếp và tương tác lẫn nhau, làm tăng các cơ hội cho tự do cá nhân, làm xói mòn các lợi thế cũ và tạo ra những sức mạnh, cùng lợi thế mới. Cả ở cấp vi mô lẫn vĩ mô đang khởi động những quá trình tái cấu trúc vĩ đại chưa từng có trong lịch sử, trong đó:

Đối với các sản phẩm : đang và sẽ có sự cải thiện căn bản về danh mục, chủng loại, chất lượng, hình dáng, công dụng và giá cả của hàng loạt sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ theo hướng đa dạng hơn, gọn nhỏ hơn, nhiều chức năng hơn, tiện lợi, tinh xảo hơn, tiết kiệm năng lượng và rẻ hơn, do đó, phổ cập rộng rãi hơn. Sẽ xuất hiện hàng loạt sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới. Vòng đời sản phẩm sẽ ngắn đi, thậm chí rất ngắn. Trong cơ cấu tiêu dùng mới, tỷ trọng lớn sẽ thuộc về thông tin và những phương tiện cung cấp, xử lý và phân tích thông tin. Đặc biệt, thế giớ sẽ ngày càng ưa chuộng và mở rộng sản xuất, cũng như tiêu dùng các sản phẩm “xanh’, sạch, và bảo vệ sức khoẻ con người bằng những công nghệ có hàm lượng khoa học ngày càng cao và thân thiện với môi trường. Công nghệ mới khiến giá trị của thông tin trở nên đắt hơn. Chất lượng nắm bắt, xử lý các thông tin trở thành nhân tố quyết định chất lượng sống, cũng như sự thành công của mỗi cá nhân và doanh nghiệp, do đó, của cả quốc gia.

Đối với các công ty: sẽ có hai xu hướng song song diễn ra. Một mặt, nền kinh tế quốc gia và thế giới càng lớn và mở rộng hơn thì các công ty trung bình và nhỏ sẽ càng thống trị và có tương lai hơn. Các doanh nghiệp sẽ được tổ chức theo quy mô nhỏ (thậm chí có công ty một người), phi tập trung hoá, giảm bớt các khâu trung gian, cơ cấu thành nhiều đơn vị độc lập, có quyền tự chủ cao, giảm bớt tệ nạn quan liêu, được chuyên môn hoá cao, có tinh thần hợp tác, hoạt động mang tính toàn cầu, chặt chẽ và tuân thủ những tiêu chuẩn đạo đức ngày càng cao hơn (hiện tại, các công ty nhỏ dưới 19 người đang tạo ra 50% giá trị hàng xuất khẩu ở Mỹ và CHLB Đức. Có tới 90% giá trị nền kinh tế Mỹ là do các công ty dưới 500 người tạo ra).

Mặt khác, sự hợp nhất để trở thành lớn hơn, mạnh hơn, giảm chi phí và có sức cạnh tranh hơn, đáp ứng những nhu cầu to lớn của nền kinh tế tương lai sẽ trở thành xu hướng vận động của các tổ hợp kinh doanh dịch vụ tài chính ngân hàng và thông tin. Sẽ ngày càng có nhiều tập đoàn xuyên quốc gia có giá trị tài sản lớn hơn GDP của một nước, thậm chí của nhiều nước. Các công ty xuyên quốc gia đang kiểm soát 2/3 chu chuyển ngoại thương và đầu tư quốc tế và sẽ không mất đi vai trò to lớn của chúng trong việc tạo động lực cho tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế toàn cầu. Trong tương lai, các công ty này sẽ được điều chỉnh theo định hướng: Toàn cầu hoá chiến lược kinh doanh; Đa nguyên hoá các chủ thể đầu tư; Đa dạng hoá thị trường và lĩnh vực đầu tư; Địa phương hoá xí nghiệp của các công ty ở nước ngoài, cả về hướng kinh doanh, cơ cấu sản phẩm, công nghệ, nguyên liệu, nhân lực và vốn đầu tư.

Đối với các nền kinh tế: Các cấu trúc ngành nghề sẽ chuyển dịch theo hướng: Thu hẹp và mất đi các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống và xuất hiện những ngành khai thác, chế biến nguyên liệu mới thích hợp; Các ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất và đem lại nhiều lợi nhuận nhất trong nền kinh tế quốc gia và quốc tế; Các công nghệ mới, các xa lộ thông tin, vận tải toàn cầu phát triển, đang thu hẹp lại khoảng cách của các quốc gia, đồng thời mở rộng giới hạn không gian kinh tế và sinh tồn của con người lên khoảng không, xuống đáy đại dương hay các vùng sa mạc, các vùng băng tuyết quanh năm… và đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển các yếu tố của hoạt động tái sản xuất kinh tế-xã hội. Các công ty và quốc gia không chỉ lập kế hoạch cho thị trường trong nước, mà còn phải cho cả thị trường khu vực và toàn cầu. Nền công nghiệp mới, tự động hoá và có tính toàn cầu sẽ xuất hiện cùng với nền kinh tế thị trường toàn cầu. Chế độ tổ chức lao động của công ty và quốc gia cũng thay đổi mạnh, sẽ bớt đi kiểu làm việc tập trung tại công sở và chế độ ăn lương suốt đời tại một công ty, một quốc gia.

Con người lao động mới sẽ có tri thức toàn diện hơn, năng động, tự chủ hơn, di chuyển chỗ làm việc thường xuyên và trên phạm vi ngày càng rộng hơn. Đô thị hoá sẽ tăng nhanh, các cấu trúc chính trị và giao lưu văn hoá-xã hội quốc gia và quốc tế sẽ có sự dịch chuyển tương ứng. “Nền kinh tế nợ” sẽ trở thành đặc trưng cho mọi công ty và quốc gia. Nói cách khác, mỗi công ty và mỗi nước sẽ ngày càng có nhu cầu và khả năng tiếp cận rộng rãi, thường xuyên hơn với các nguồn vốn bên ngoài, cũng như tích cực đầu tư ra bên ngoài hơn. Tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất so với tất cả các hoạt động kinh doanh khác, các hoạt động tài chính-tín dụng sẽ ngày càng trở thành vũ khí cạnh tranh và công cụ “đồng hoá” một công ty, một quốc gia lợi hại nhất. Tình trạng nợ khó đòi và tín dụng không hiệu quả sẽ ra tăng, kéo theo những xung lực tiềm ẩn gây bất ổn định thị trường tài chính-tiền tệ quốc gia và quốc tế, đồng thời đặt ra yêu cầu bức bách hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát an toàn tài chính-tín dụng cả ở cấp vi mô lẫn cấp vĩ mô (cấp quốc gia lẫn khu vực và quốc tế).

1.4.Tư duy mới về bàn tay nhà nước trong quản lý kinh tế thị trường

Thế giới mới đang định hỡnh, đũi hỏi tư duy mới thích ứng về bàn tay quản lý của Nhà nước trong khi thực hiện các nguyên tắc kinh tế thị trường, tránh các cực đoan, phiến diện trong nhận thức, tăng cường sự phối hợp đồng bộ các công cụ và cấp độ quản lý, giỏm sỏt chặt chẽ và chủ động xử trí kịp thời các các tác động mặt trái của chính sách lựa chọn trong thực tiễn bằng hợp lực của sức mạnh tổ chức và tài chính trong và ngoài nước, với vai trũ trung tâm là Nhà nước…, với các biểu hiện và yêu cầu chủ yếu sau:

Một là, không duy ý chí, giáo điều, cực đoan, hoặc quá nhấn mạnh và tuyệt đối hóa vai trò chỉ huy tập trung, mang tính áp đặt một chiều của Nhà nước, hoặc thả nổi hoàn toàn và đặt toàn bộ quá trình phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt có tính đầu cơ, mù quáng, “bầy đàn” cao của các tín hiệu và sức mạnh thị trường tự do, nhấn mạnh lợi ích tư nhân, cục bộ và ngắn hạn. Vấn đề then chốt cho một nền kinh tế thành công là mô hình phát triển được lựa chọn phải phù hợp cả với bối cảnh quốc tế, lẫn các điều kiện lịch sử cụ thể trong nước, cho phép khai mở, cộng hưởng cao nhất các tiềm năng và hiệu quả các nguồn lực phát triển trong và ngoài nước, tham gia sớm, ngày càng chặt chẽ và hiệu quả vào “chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu”. Đặc biệt, sự phát triển các tiềm năng và tự do cá nhân; sự hợp tác và thịnh vượng về kinh tế; sự đồng thuận, dân chủ và gắn kết về xó hội trong một thế giới ngày càng “phẳng”, hũa hợp và thõn thiện hơn với môi trường đang và sẽ ngày càng được coi là 3 trụ cột hợp thành chủ yếu, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của văn minh nhân loại đương đại.

Hai là, chủ động tham khảo, đan xen và phối hợp chính sách giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực, cũng như toàn cầu. Đang qua dần thời mà mỗi nước đóng cửa để tự giải quyết những vấn đề phát triển của mình, dù đó là vấn đề nhỏ nhất và nước đó là lớn, mạnh nhất thế giới.

Ba là, vai trò đầu tư trực tiếp ngày càng giảm hoặc được định hướng hỗ trợ phát triển đầu tư tư nhân. Nhà nước có vai trũ ngày càng to lớn trong cuộc chiến với cỏc chấn động cơ cấu hoặc chu kỳ kinh tế bột phỏt, nhất là khủng hoảng tài chớnh-ngõn hàng, dự nú xẩy ra ở trong nước hay nước ngoài, nguyên nhân khụng trực tiếp từ sai lầm của chớnh phủ hoặc trong khu vực kinh tế nhà nước. Đồng thời, vai trũ của cụng tỏc thụng tin, dự bỏo và giỏm sỏt, cảnh bỏo an toàn, nhất là an toàn hệ thống tài chớnh-ngõn hàng, là hết sức quan trọng và khụng thể coi nhẹ trong bất luận trường hợp nào và vào thời điểm nào…Ngoài ra, cần luôn tỉnh táo với các tác động lan tỏa, dây chuyền có tính 2 mặt của các biến cố và chính sách kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần dập ngũi khủng hoảng từ khi nú cũn nhen nhỳm, thay vỡ khi nú đó thành đám cháy mạnh và lan rộng, thỡ chi phí là khó đo lường.

Bốn là, bàn tay điều chỉnh của nhà nước cần chuyển dịch theo hướng giảm can thiệp hành chính, trực tiếp, để chuyển sang phương thức can thiệp gián tiếp, có tính định hướng và giám sát nhiều hơn, vừa tuõn thủ cỏc yờu cầu và lợi ích thị trường, vừa không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hũa cỏc lợi ớch trong quỏ trỡnh phỏt triển, nhất là khụng lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng. Tăng cường vai trũ cỏc loại quỹ bỡnh ổn thị trường và sử dụng linh hoạt các công cụ nợ, biến nợ xấu thành chứng khoán có thể mua-bán trên thị trường nợ là một trong các lựa chọn cần thiết và hiệu quả trong trường hợp này và cho mục tiêu đó.

Tóm lại, do sự tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau của các xu hướng đã nêu trên đây, toàn cảnh nền kinh tế thế giới tương lai sẽ là một bức tranh không cố định cả về mầu sắc và bố cục. Độ nhạy cảm và phụ thuộc lẫn nhau giữa các vấn đề và sự kiện trong và ngoài nước gia tăng. Biên giới và chủ quyền quốc gia theo nghĩa truyền thống sẽ bị “mờ” dần. Các định chế khu vực và quốc tế ngày càng ảnh hưởng chi phối chính sách và định hướng sự phát triển của mỗi nước. Tuy nhiên, các siêu cường vẫn luôn gây ra những ảnh hưởng khu vực và toàn cầu. Các nhân tố văn hoá-xã hội cùng các đặc tích quốc gia vẫn đóng vai trò chi phối quan trọng và tạo ra tính đa dạng nhiều vẻ trong sự phát triển thế giới.

Quá trình phát triển của mỗi quốc gia và khu vực sẽ được đẩy nhanh hơn cùng với những giao động quá độ được đặc trưng bởi những cải cách mạnh ở lĩnh vực này chưa động bộ với ở lĩnh vực khác; những thành công và cả sự đổ vỡ sẽ ra tăng về qui mô và tốc độ trong môi trường kinh doanh quốc gia và quốc tế vừa đầy tính cạnh tranh, vừa đề cao sự hợp tác. Quá trình cơ cấu lại nhanh và hiệu quả toàn bộ nền kinh tế quốc gia và quốc tế trên cơ sở các công nghệ mới về chất đang và sẽ là động lực chủ yếu quy định sự phát triển và bộ mặt nền kinh tế quốc gia và kinh tế thế giới tương lai. Những cơ hội và thách thức mới đang và sẽ đặt ra cho mỗi nước nguyên tắc tối cao của thành công trong bối cảnh đó là “ai thấy trước được và chuẩn bị tốt cho tương lai, người đó sẽ thắng” như lời của Bill Gates, tỷ phú trẻ và giàu nhanh nhất nước Mỹ.

(còn tiếp)

TS.Nguyễn Minh Phong
Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội