Hoạt động nghiên cứu khoa học
MỘT SỐ ĐIỂM MỚI THÔNG TƯ 200/2014/TT-BTC LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG HỌC PHẦN TỔ CHỨC HTKT
Bài viết tóm tắt một số nội dung mới của Thông tư 200/2014/TT-BTC liên quan đến môn Tổ chức HTKT.
Chương 1: Khái quát về tổ chức HTKT
- Nội dung tổ chức HTKT
- Tổ chức bộ máy kế toán
Bổ sung: Quy định về quyền và trách nhiệm của DN đối với việc tổ chức kế toán tại các đơn vị trực thuộc không có tư cách pháp nhân hạch toán phụ thuộc (đơn vị HT phụ thuộc)
- Doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức bộ máy kế toán và phân cấp hạch toán ở các đơn vị hạch toán phụ thuộc phù hợp với đặc điểm hoạt động, yêu cầu quản lý của mình và không trái với quy định của pháp luật.
- Doanh nghiệp quyết định việc kế toán tại đơn vị hạch toán phụ thuộc có tổ chức bộ máy kế toán riêng đối với:
- a) Việc ghi nhận khoản vốn kinh doanh được doanh nghiệp cấp: Doanh nghiệp quyết định đơn vị hạch toán phụ thuộc ghi nhận là nợ phải trả hoặc vốn chủ sở hữu;
- b) Đối với các giao dịch mua, bán, điều chuyển sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nội bộ: Doanh thu, giá vốn chỉ được ghi nhận riêng tại từng đơn vị hạch toán phụ thuộc nếu sự luân chuyển sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ giữa các khâu trong nội bộ về bản chất tạo ra giá trị gia tăng trong sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Việc ghi nhận doanh thu từ các giao dịch nội bộ để trình bày trên Báo cáo tài chính của các đơn vị không phụ thuộc vào hình thức của chứng từ kế toán (hóa đơn hay chứng từ luân chuyển nội bộ);
- c) Việc phân cấp kế toán tại đơn vị hạch toán phụ thuộc: Tùy thuộc mô hình tổ chức kế toán tập trung hay phân tán, doanh nghiệp có thể giao đơn vị hạch toán phụ thuộc phản ánh đến lợi nhuận sau thuế chưa phân phối hoặc chỉ phản ánh đến doanh thu, chi phí.
Chương 2: Tổ chức chứng từ kế toán
- Nội dung tổ chức chứng từ kế toán
- Tổ chức lập chứng từ
Bổ sung:
– Xây dựng mẫu chứng từ phù hợp với đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý nhưng phải đảm bảo nguyên tắc minh bạch, kịp thời, dễ kiểm tra, kiểm soát, đối chiếu.
- Tổ chức kiểm tra chứng từ
Thay thế diễn giải trong kiểm tra hình thức và nội dung chứng từ bằng trình tự kiểm tra chứng từ được quy định trong TT200.
– Trình tự kiểm tra chứng từ kế toán.
+ Kiểm tra tính rõ ràng, trung thực, đầy đủ của các chỉ tiêu, các yếu tố ghi chép trên chứng từ kế toán;
+ Kiểm tra tính hợp pháp của nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã ghi trên chứng từ kế toán, đối chiếu chứng từ kế toán với các tài liệu khác có liên quan;
+ Kiểm tra tính chính xác của số liệu, thông tin trên chứng từ kế toán.
Chương 3: Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán
Về nguyên tắc, nội dung tổ chức tài khoản kế toán không có thay đổi gì so với QĐ 15.
Bổ sung: Giới thiệu một số điểm mới của hệ thống tài khoản kế toán theo TT 200
Chương 4: Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán
Về tổ chức hệ thống báo cáo bao gồm: Thiết lập danh mục, nội dung, kết cấu của BCTC và Tổ chức lập, công bố Báo cáo không có gì thay đổi so với QĐ 15
Bổ sung: Giới thiệu một số thay đổi trong lập báo cáo tài chính
Chương 5: Tổ chức hệ thống Sổ kế toán
Theo QĐ 15 | Theo TT 200 |
– Xác định hình thức sổ phù hợp với đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý.
– Nắm vững quy định đối với từng hình thức sổ về số lượng, kết cấu, trình tự ghi chép. – Nắm vững các yếu tố trên từng sổ, cách ghi, phương pháp chữa sổ. – Tổ chức thực hiện các công việc cần tiến hành vào cuối ngày, định kỳ, cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
|
– Xây dựng hình thức sổ riêng hoặc lựa chọn hình thức sổ (được BTC hướng dẫn) phù hợp với đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý. Khi đó cần nắm vững quy định đối với từng hình thức sổ về số lượng, kết cấu, trình tự ghi chép.
– Xây dựng biểu mẫu sổ phù hợp với đặc điểm hoạt động. Hoặc áp dụng biểu mẫu do BTC hướng dẫn. Khi đó cần nắm vững các yếu tố trên từng sổ, cách ghi, phương pháp chữa sổ.
– Tổ chức thực hiện các công việc cần tiến hành vào cuối ngày, định kỳ, cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
|
Chương 6: Tổ chức hạch toán các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh
Và Chương 7: Tổ chức hạch toán các quá trình kinh doanh chủ yếu
Về tổ chức hạch toán không có thay đổi so với QĐ 15.
Trong quá trình hướng dẫn làm bài tập, áp dụng những thay đổi của thông tư 200 để định khoản, lập báo cáo
ThS Nguyễn Thị Phương Thảo
LIÊN HỆ NỘI DUNG MÔN TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG GIẢNG DẠY MÔN KẾ TOÁN MÁY
Học phần Tổ chức HTKT là một học phần yêu cầu sinh viên khá toàn diện trong việc vận dụng kiến thức các môn lý thuyết về kế toán. Ở học phần này, sinh viên được nghiên cứu những vấn đề liên quan đến từng bước trong quy trình kế toán, được thực hành lập chứng từ, sổ kế toán một cách thủ công. Đây là nền tảng kiến thức để thực hành trên phần mềm kế toán.
Học phần Kế toán máy hướng dẫn sinh viên làm kế toán dưới sự hỗ trợ của PMKT. Thực tế, PMKT dù có hiện đại đến đâu cũng chỉ mang tính chất là công cụ hỗ trợ. Nếu sinh viên nắm được kiến thức nền tảng sẽ vận hành PMKT tốt hơn, nhanh hơn. Dễ tìm hướng giải quyết khi phát sinh những sai sót trong quá trình sử dụng PMKT.
Vậy, có thể liên hệ kiến thức 02 môn này như thế nào để tăng chất lượng học tập ở sinh viên trong môn KTM DN. Và cũng để sinh viên giải quyết được một số thắc mắc khi so sánh, liên hệ kiến thức của 02 môn này với nhau. Sau đây, xin chia sẻ một số nội dung có thể lưu ý khi giảng dạy học phần KTMDN.
- Trong môn KTMDN việc Khai báo danh mục vật tư, hàng hóa tương ứng với mở Sổ chi tiết trong môn Tổ chức HTKT. Vì vậy, những dữ liệu cần khai báo trong danh mục tương ứng với thông tin trong Thẻ kho. (Tương tư, khai báo TSCĐ tương ứng với mở Thẻ TSCĐ).
- Khi làm kế toán thủ công, cần đối chiếu Sổ tổng hợp và Sổ chi tiết, khi sử dụng PMKT thì không. Vì trong quy trình hoạt động của PMKT, toàn bộ dữ liệu sau khi được nhập vào hệ thống sẽ được lưu trữ dưới một CSDL duy nhất làm cơ sở để tính toán. Khi người dùng muốn kết xuất thông tin gì, hệ thống sẽ lấy từ CSDL này. Trong khi đó, ở kế toán thủ công. Một bộ chứng từ gốc được luân chuyển qua kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết. Với trình độ, kỹ năng khác nhau, kế toán sẽ xử lý thông tin trên chứng từ tùy vào mục đích của mình. Vì vậy, 02 người làm độc lập có thể xảy ra sai lệch. Cuối kỳ, cần đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết để đảm bảo khớp đúng, trước khi lập báo cáo.
- Khi khai báo trong PMKT: Một tài khoản kho có thể dùng để theo dõi nhiều kho. Nhưng kho chỉ được tương ứng với một tài khoản kho. Một DN có thể có nhiều kho, ở nhiều vị trí khác nhau. Kế toán có thể theo dõi tình hình nhập, xuất, tồn ở từng kho. Song khi hạch toán, mỗi tài khoản kho tương ứng với một SCT, vì vậy khi khai báo Danh mục tài khoản kho cần lưu ý, chỉ mở một TK kho, TK kho này không bị trùng với TK khác.
- Quy trình hoạt động của PMKT gần như tương tự Quy trình hạch toán trong kế toán thủ công.
+ Quy trình hạch toán thủ công: Chứng từ > Sổ > Báo cáo
- Giai đoạn Chứng từ: Thu thập thông tin ban đầu về nghiệp vụ, sao chụp lại ngiệp vụ
- Giai đoạn sổ: Xử lý và ghi chép nghiệp vụ bằng ngôn ngữ của kế toán.
- Giai đoạn báo cáo: Cung cấp thông tin khái quát về tình hình kinh tế, tài chính của đơn vị
+ Quy trình hoạt động PMKT: Nhận dữ liệu > Xử lý dữ liệu > Kết xuất dữ liệu
- Giai đoạn nhận dữ liệu: kế toán nhập thông tin về nghiệp vụ vào PMKT
- Giai đoạn xử lý và kết xuất: gần như thực hiện tự động, tính toán, xử lý, kết xuất thông tin.
Lưu ý: Khi sử dụng PMKT, khâu nhập dữ liệu đặc biệt quan trọng, do người sử dụng quyết định chất lượng thông tin, chất lượng các khâu tiếp theo.
- Cách kiểm tra, phát hiện lỗi sai
Trong kế toán thủ công:
– Thường thì định kỳ, sẽ tiến hành kiểm tra đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết để phát hiện sai sót. Vì với một bộ chứng từ, hai kế toán cùng xử lý nếu không khớp đúng thì sẽ phát hiện và điều chỉnh kịp thời. Hoặc giữa thủ kho với kế toán chi tiết vật tư cũng có thể tiến hành đối chiếu định kỳ để bảo đảm yêu cầu quản lý tài sản.
– Trong kế toán máy, nên kiểm tra các sổ ngay sau khi cất các chứng từ (ghi sổ). Bởi như đã trình bày ở trên, đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và chi tiết là không cần thiết. Song, khi lập chứng từ và cất không phải lúc nào cũng thành công. Vì vậy cần kiểm tra xem sản phẩm của quy trình hạch toán là sổ, báo cáo có đươc lên đúng không ngay khi hoàn tất việc ghi sổ.
Thường thì PMKT sẽ có chức năng cảnh báo. Khi nhập dữ liệu không đúng, PMKT sẽ báo để người sử dụng kiểm tra lại. Nhưng ngay cả khi chức năng cảnh báo của PMKT không tốt, thì kế toán vẫn nên chủ động kiểm tra.
Người sử dụng thường được giảm bớt khối lượng công việc khi PMKT tự động sinh chứng từ có liên quan. Ví dụ: Mua hàng, thanh toán bằng tiền mặt. Kế toán chỉ cần nhập giao diện Phiếu nhập, còn Phiếu chi gần như tự động sinh chứng từ. Nhưng khi phát hiện sai sót, cần sửa thông tin trên Phiếu nhập mà trước đó đã có nghiệp vụ khác có liên quan đến tiền mặt, kế toán sẽ phải sửa cả chứng từ tự động sinh ra đó.
ThS Nguyễn Thị phương Thảo
GIỚI THIỆU PHẦN MỀM KẾ TOÁNMISA MIMOSA.NET X1 2014 – Tự động hóa quá trình tổng hợp BCTC HCSN
MISA Mimosa.NET X1 2014 là phần mềm tổng hợp báo cáo tài chính cấp ngành, hỗ trợ đắc lực cho các đơn vị dự toán cấp I, II trong việc tổng hợp các báo cáo tài chính của các đơn vị cấp dưới. Được phát triển trên nền tảng công nghệ mới nhất – Microsoft .NET và tích hợp với nhiều tính năng ưu việt, MISA Mimosa.NET X1 2014 góp phần tự động hóa toàn bộ quá trình tổng hợp báo cáo tài chính.
Một số tính năng cơ bản
Nhận báo cáo cấp dưới
- Hỗ trợ nhận báo cáo của các đơn vị cấp dưới.
- Cho phép nhập khẩu tệp báo cáo của các đơn vị cấp dưới theo từng quý, 6 tháng và theo cả năm.
Đặc biệt, các đơn vị dự toán cấp III hạch toán bằng phần mềm MISA Mimosa.NET 2012 R8 trở lên dễ dàng xuất khẩu các báo cáo tài chính để gửi đơn vị cấp trên nhập khẩu và tổng hợp bằng phần mềm MISA Mimosa.NET X1 2012.
Thống kê tình hình nộp báo cáo của các đơn vị cấp dưới
Thống kê một cách chính xác những đơn vị nào đã nộp báo cáo, đơn vị nào chưa nộp và chưa nộp những báo cáo nào. Từ đó giúp đơn vị tổng hợp quản lý được tình hình nộp báo cáo của các đơn vị cấp dưới, qua đó có thể đôn đốc, nhắc nhở các đơn vị chưa nộp đủ báo cáo tiếp tục nộp báo cáo để đơn vị tổng hợp thực hiện tổng hợp các báo cáo trong kỳ.
Tổng hợp dữ liệu
- Giúp đơn vị chủ quản tổng hợp báo cáo tài chính của các đơn vị cấp dưới nhanh chóng, chính xác.
- Cho phép xem và in báo cáo tổng hợp của một số đơn vị hoặc của toàn ngành.
Báo cáo
- Cho phép xem và in các báo cáo chi tiết của từng đơn vị dự toán cấp dưới và báo cáo của đơn vị tổng hợp.
- Cung cấp hệ thống báo cáo phân tích linh động theo nhiều chỉ tiêu, đáp ứng nhu cầu phân tích báo cáo của các đơn vị chủ quản.
– Đáp ứng đầy đủ các báo cáo theo Quyết định 19/2006/QĐ-BTC và Thông tư 01/2007/TT-BTC. Hướng dẫn xét duyệt, thẩm định và thông báo quyết toán năm đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ và ngân sách các cấp
Gửi báo cáo lên cấp trên
Phần mềm cho phép đơn vị có nhiệm vụ tổng hợp báo cáo tài chính tiến hành xuất khẩu báo cáo ra file và tiếp tục gửi lên đơn vị chủ quản của mình. Ví dụ đơn vị cấp II xuất khẩu và gửi file báo cáo tới đơn vị cấp I. Trong trường hợp máy tính của đơn vị có nối mạng Internet, có cấu hình hòm thư email phần mềm sẽ gửi mail kèm file xuất khẩu báo cáo của đơn vị mình tới đơn vị chủ quản.
Yêu cầu hệ thống
Phần mềm đòi hỏi yêu cầu nhất định về phần cứng và phần mềm. Tuy nhiên đây là những yêu cầu cũng khá cơ bản, không quá cao, đa phần các đơn vị sẽ đáp ứng được.
Yêu cầu phần cứng
- Máy tính: Bộ vi xử lý Intel Dual Core hoặc cao hơn
- Bộ nhớ trong (RAM): 1GB trở lên
- Đĩa cứng: 500MB trống hoặc nhiều hơn
- Màn hình: Độ phân giải 1024×768 hoặc tốt hơn
- CD-ROM tốc độ 12X hoặc nhanh hơn
- Sound card, loa (dùng để xem phim hướng dẫn)
Yêu cầu phần mềm
- Hệ điều hành: Windows XP SP3 trở lên/Vista/Windows 7/Windows Server 2003 SP1 hoặc mới hơn
- Bộ gõ tiếng Việt: Unicode
Như vậy, nhờ phần mềm MISA Mimosa.NET X1 2012, công việc tổng hợp báo cáo tài chính chỉ còn là việc nhận số liệu từ các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc gửi lên, còn lại toàn bộ thao tác tổng hợp dữ liệu sẽ được tự động hoàn toàn bằng phần mềm MISA Mimosa.NET X1 2012.
ThS Nguyễn Thị Phương Thảo
Tiềm năng phát triển các loại hình du lịch xanh tại Sơn La
Tầm quan trọng của du lịch xanh
Du lịch xanh (green tourism) là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hoá, có giáo dục môi trường, đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Trong những năm qua, du lịch xanh đã và đang phát triển nhanh chóng ở nhiều nước trên thế giới và ngày càng thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các tầng lớp xã hội, đặc biệt đối với những người có nhu cầu tham quan du lịch và nghỉ ngơi. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hoá cộng đồng, sự phát triển du lịch xanh đã và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho cộng đồng người dân địa phương, nhất là người dân ở các vùng sâu, vùng xa nơi có các khu bảo tồn tự nhiên và các cảnh quan hấp dẫn.
Có thể khẳng định rằng du lịch xanh là chìa khóa vàng để phát triển du lịch bền vững. Du lịch xanh, du lịch sinh thái, du lịch bền vững, du lịch có trách nhiệm là những cách gọi khác nhau nhưng có ý nghĩa gần giống nhau trong cách thức tham quan nhưng không gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và văn hóa địa phương. Nhiều quốc gia Đông Nam Á đã tận dụng thế mạnh biển và rừng núi của mình để đưa ra những sản phẩm du lịch xanh như tham quan các khu bảo tồn, ngắm chim, cùng sống với người dân địa phương, tham quan bằng xe đạp, trồng cây, lặn biển ngắm san hô và cá, thưởng thức cây và hoa, thám hiểm rừng, chinh phục thác nước,… Khi tham gia các tour du lịch này, khách du lịch được khuyến khích hòa nhập với thiên nhiên, giúp nâng cao đời sống của người dân địa phương mà không gây bất cứ tác động gì đến môi trường.
Phát triển du lịch xanh tại một số quốc gia và Việt Nam
Thái Lan là quốc gia dẫn đầu trong khu vực về những ý tưởng làm du lịch xanh nổi tiếng với chiến dịch 7 Green Tourism đã nâng cao nhận thức, hiểu biết về du lịch xanh cho tất cả các thành phần tham gia du lịch, từ các hãng lữ hành, khách sạn, nhà hàng, các điểm vui chơi đến khách du lịch. Trước sự tăng lên nhanh chóng của số lượt khách du lịch, Thái Lan đã đổi mới phát triển du lịch là không tập trung vào việc tăng số lượng du khách nữa mà tập trung vào việc làm sao để du khách ở lâu hơn và chi tiêu nhiều hơn. Việc tăng số lượng du khách sẽ có một nguy cơ tiềm ẩn khiến cho môi trường chịu nhiều tác động xấu. Còn Singapore thực hiện phương châm làm du lịch xanh không chỉ là đưa ra những sản phẩm du lịch dựa trên nguồn tài nguyên sẵn có mà còn có thể là sáng tạo ra màu xanh này. Mặc dù không phải là một quốc gia giàu tài nguyên nhưng họ tạo ra màu xanh cho mình bằng cách trồng cây xanh khắp nơi, thậm chí trồng cả cây xanh nhân tạo. Vườn cây Garden By the Bay của Singapore đã tạo được các “siêu cây” cao từ 22-50 mét, có khả năng tổng hợp năng lượng mặt trời, nhận nước mưa, lọc không khí và có hệ thống quang điện để chuyển ánh sáng mặt trời thành năng lượng điện. Vườn cây này khai trương vào tháng 6-2012 và có thể đón 5 triệu lượt khách tham quan mỗi năm.
Tại Việt Nam, chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 xác định rõ: Tập trung đầu tư phát triển các loại hình du lịch có thế mạnh về tài nguyên du lịch của đất nước và của từng địa phương, nhấn mạnh yếu tố văn hóa và sinh thái đặc sắc trong sản phẩm du lịch. Thực hiện chiến lược đó, để gìn giữ nét đẹp cổ kính cho đất Cố đô, tỉnh Thừa Thiên Huế đã xây dựng một số điểm đến xanh như làng cổ Phước Tích, hoa giấy Thanh Tiên, khám phá Tam Giang… Khách đến làng cổ Phước Tích phải gửi xe ở khu vực bên ngoài và đi bộ tham quan, tìm hiểu về làng; khách muốn khám phá Tam Giang phải đi xe đạp, trồng một cây xanh. Tỉnh cũng đang xây dựng dự án cải tạo sông Ngự Hà, hệ thống ao hồ trong Kinh thành, giải tỏa dân cư trên Thượng Thành, giảm mật độ dân số khu vực Thành Nội… góp phần xây dựng môi trường du lịch bền vững. Ngành du lịch Bà rịa – Vũng tàu cũng đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường cảnh quan, kết hợp giám sát chặt chẽ chất lượng môi trường tại các doanh du lịch nhằm lan tỏa ra cộng đồng ý thức làm du lịch có trách nhiệm. Từ đó góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong khối kinh doanh du lịch; nhiều khu du lịch, khách sạn đã quan tâm đầu tư hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, phân loại rác thải trước khi thải ra môi trường, trồng mới hệ thống cây xanh, sân vườn, tạo môi trường trong lành, cảnh quan sạch đẹp, phục vụ du khách.
Tiềm năng phát triển du lịch xanh ở Sơn La
Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc rất giàu tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch xanh, đang sở hữu những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn hấp dẫn với 37 di tích lịch sử cách mạng, 36 di tích khảo cổ học, 14 di tích danh thắng, 3 di tích kiến trúc nghệ thuật. Nhà ngục Sơn La, Kỳ đài Thuận Châu, cứ điểm Nà Sản, công trình thủy điện Sơn La với lòng hồ được ví như Hạ Long trên núi, Cao nguyên Mộc Châu, Ngọc Chiến (quanh năm khí hậu mát mẻ như Đà Lạt)… Sơn La cũng nổi tiếng với văn hoá của 12 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng. Nhiều làng, bản dân tộc còn giữ được nhiều giá trị sinh hoạt văn hóa truyền thống, được xem như là tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị. Có những làng bản dân tộc có đủ điều kiện để phát triển mô hình du lịch xanh gắn với xóa đói giảm nghèo như bản Áng, Chiềng Xôm, Chiềng Khoang, Co Mạ,… Du khách đến Sơn La còn được hoà mình vào nền văn hoá nghệ thuật và nếp sống nhân văn, thưởng thức các món ăn dân tộc, tham gia các lễ hội như lễ hội hoa ban, xên bản, xên mường, cầu mưa, gieo hạt, mừng cơm mới…
Bên cạnh đó, UBND tỉnh rất quan tâm đến phát triển du lịch đã có chiến lược phát triển du lịch Sơn La đến năm 2020 tầm nhìn 2030; thành lập Hiệp Hội du lịch Sơn La; xây dựng Đề án phát triển du lịch vùng lòng hồ thủy điện Sơn La giai đoạn 2012-2020; Đề án phát triển dịch vụ du lịch Sơn La giai đoạn 2012-2020; Tổ chức xúc tiến và quảng bá về du lịch như chương trình qua miền Tây Bắc, ngày hội Tết độc lập hàng năm tại Mộc Châu; động lữ hành có nhiều tiến bộ, khuyến khích, tạo điều kiện cho các công ty lữ hành trên địa bàn cả nước đến Sơn La khảo sát, điều tra xây dựng chương trình tour du lịch.
Định hướng phát triển các loại hình du lịch xanh tại Sơn La
Sơn La là một tỉnh miền núi rất phù hợp để phát triển các loại hình du lịch xanh không chỉ thoả mãn du khách bằng những thắng cảnh hùng vĩ, khí hậu trong lành, mà còn bằng tính đa dạng văn hoá cao của các cộng đồng dân tộc ít người, có thể phát triển các loại hình du lịch xanh sau đây.
Du lịch làng bản: Các làng bản dân tộc ít người như người Thái, người H’Mông ở Sơn La có thể được tổ chức thành các điểm du lịch nhỏ. Sức hút của du lịch làng bản xuất phát từ những đặc điểm sau: Cảnh quan đẹp và sạch; Nghề thủ công truyền thống; Lịch sử của vùng; Kiến trúc; Món ăn; Nghệ thuật và âm nhạc; Lối sống; Ngôn ngữ; Trang phục dân tộc. Du lịch làng bản thường đem lại nhiều thu nhập hơn cho nhân dân địa phương thông qua sự tham gia rộng rãi của họ vào dịch vụ du lịch. Du lịch đi bộ ngắm cảnh, leo núi, mạo hiểm: Đi bộ, leo núi, ngủ lán trại để được sống trong thiên nhiên có thể trở thành một hình thức du lịch phổ biến ở Sơn La. Nhiều nhóm du khách mong muốn trải nghiệm những hành trình nguy hiểm (leo vách đá, ngủ rừng…) để tìm cảm giác mạnh. Du lịch nghỉ mát: Tại Sơn La có những vùng có khí hậu mát lành như Cao Nguyên Mộc Châu, Du lịch cộng đồng xã Ngọc Chiến. Khách du lịch đến đây chủ yếu có mục đích nghỉ dưỡng. Du lịch lữ hành: Các tour du lịch kết hợp với các phương tiện đi xe, đi bộ, đi thuyền (du lịch lòng hồ Thuỷ điện Sơn La), thậm chí cưỡi ngựa, cưỡi trâu kết hợp các mục tiêu ngắm cảnh, nghỉ mát, thăm làng bản… Thế mạnh của du lịch xanh miền núi chủ yếu được tạo ra từ sự biệt lập của các vùng này đối với các nền văn minh đô thị và công nghiệp hoá, khiến cho hầu như mọi thứ ở miền núi xa xôi đều trở nên có sức hấp dẫn với du khách phần lớn là dân cư đô thị.
Sơn La là một địa phương có tiềm năng lớn trong việc phát triển du lịch xanh với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp cùng với các di tích lịch sử. Chính vì vậy, việc phát triển du lịch xanh là thực sự cần thiết và đây cũng nên là định hướng lâu dài cho du lịch Sơn La nhằm góp phần phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nhà ngày càng mạnh mẽ và bền vững trong điều kiện đầy biến động của môi trường và hội nhập quốc tế hiện nay./.
Người Viết: Trương Thị Luân
TÌM HIỂU VỀ ERP – PHẦN MỀM QUẢN LÝ ĐA NĂNG DÙNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Enterprise resource planning software, viết tắt là ERP, là một giải pháp phần mềm ra đời cũng đã khá lâu với mục đích hỗ trợ quản trị doanh nghiệp. Chức năng chính của ERP đó là tích hợp tất cả mọi phòng ban, mọi chức năng của công ty lại trong một hệ thống máy tính duy nhất để dễ theo dõi hơn, ERP như một phần mềm khổng lồ, nó có khả năng hỗ trợ doanh nghiệp về tài chính, nhân sự, sản xuất, quản lý chuỗi cung ứng …Vậy, ERP cung cấp những tiện ích gì? Ở Việt Nam ERP đã nhận được sự quan tâm như thế nào từ phía DN?
ERP là gì?
Doanh nghiệp có thể coi như một thực thể kinh tế, gồm nhiều bộ phận với những chức năng khác nhau. Thông tin đầu ra của bộ phận này có thể là thông tin đầu vào của bộ phận khác hoặc thường xuyên phải phối kết hợp giữa các bộ phận. Nếu mỗi phòng ban sử dụng một loại phần mềm khác nhau thì có thể việc kết nối các dữ liệu với nhau rất khó, nhất là khi khối lượng dữ liệu lớn hoặc phần mềm không tương thích với nhau, từ đó sự phối hợp giữa các bộ phận của một công ty trở nên khó khăn, tốn kém, mất thời gian. ERP gom hết tất cả những thứ này lại với nhau và chỉ sử dụng một cơ sở dữ liệu duy nhất để tất cả mọi người, mọi phòng ban đều có thể truy cập vào và chia sẻ dữ liệu cho nhau.
ERP – xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1990 khi tập đoàn Gartner dùng nó để mở rộng cho MRP (Manufacturing Resources Planning), cũng là một phần mềm quản lý nhưng tập trung cho việc sản xuất hàng hóa.
Đến khoảng giữa những năm 1990, các cơ quan chính phủ và tổ chức phi chính phủ cũng bắt đầu ứng dụng ERP.
Tới khoảng năm 2000, thuật ngữ “ERP II” xuất hiện và được dùng để chỉ những phần mềm ERP có khả năng dùng giao diện web để truy cập và sử dụng. ERP II cho phép không chỉ bản thân công ty mà cả khách hàng và các đối tác trong dây chuyền cung ứng cũng có thể xem được thông tin. Hay nói cách khác, thế hệ ERP mới này hỗ trợ việc hợp tác giữa các công ty với nhau chứ không chỉ quản lý nội bộ nữa.
Tính linh hoạt của ERP
Công ty thay vì sử dụng nhiều phần mềm đơn lẻ thì chỉ cần sử dụng ERP như một phần mềm duy nhất để quản lý.
ERP sẽ được chia nhỏ thành các gói tùy mục đích, ví dụ như gói tài chính, gói nhân sự, gói kho bãi… Một công ty có thể chỉ mua một số gói nhất định tùy theo khả năng và nhu cầu của mình chứ không cần phải mua hết cả phần mềm. Giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí.
Ngoài ra, hệ thống ERP sẽ được tùy biến theo nhu cầu của từng công ty bởi mỗi doanh nghiệp sẽ có các yêu cầu khác nhau, những quy trình khác nhau. Và không chỉ các gói có thể tùy biến mà từng biểu mẫu, từng thanh công cụ, vị trí các nút, các khu vực điền số liệu… cũng thể được tinh chỉnh lại cho phù hợp nhất.
Ngoài phần mềm cài trên PC và nền web, các hãng ERP cũng có làm thêm phiên bản di động cho ứng dụng của mình. Khi được cung cấp ứng dụng giúp nhân viên công ty xem xét thông tin mọi lúc mọi nơi, ngay cả khi đang ở ngoài đường và không mang laptop bên cạnh. Bạn chỉ cần có smartphone là có thể nắm được hoạt động của công ty hay cửa hàng của mình.
Như vậy có thể thấy ERP khá linh hoạt giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng ứng dụng vào trong công tác quản trị.
Các tính năng của ERP
ERP có thể hỗ trợ doanh nghiệp ở nhiều mặt hơn một phần mềm kế toán thông thường. Để tiện theo dõi, người viết sẽ tiến hành tổng hợp và so sánh các tính năng này.
STT | CÁC TÍNH NĂNG | ERP | PHẦN MỀM KẾ TOÁN |
1 | Kiểm soát thông tin khách hàng | Thông tin được lưu trữ ở một CSDL duy nhất, mọi nhân viên, CEO có thể dễ dàng truy cập xem thông tin KH. | Mỗi bộ phận: bán hàng, kho, kế toán có những cách lưu trữ thông tin khách hàng riêng, ở một nơi riêng, không đồng nhất. |
Tăng tốc quá trình sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ | Giúp tự động hóa một phần hoặc tất cả quy trình sản xuất, từ việc chuẩn bị nguyên vật liệu cho đến ra thành phẩm, quản lý đầu ra đầu vào, đóng gói và nhiều thứ khác.
Công ty có thể tiết kiệm thời gian, giảm chi phí, tăng năng suất và giảm lượng nhân sự cần thiết. Người quản lý có thể xem tất cả mọi thông số của công ty trong một giao diện hợp nhất. |
PMKT giúp chuyên nghiệp hóa công tác kế toán, từ đó tác động gián tiếp đến các khâu khác giúp tăng năng suất công việc. | |
Kiểm tra chất lượng, quản lý dự án | ERP giúp doanh nghiệp kiểm tra và theo dõi tính đồng nhất trong chất lượng sản phẩm, đồng thời lên kế hoạch và phân bổ nhân lực một cách hợp lý tùy nhu cầu dự án.
ERP còn có thể tự động kiểm tra trong cơ sở dữ liệu xem nhân viên nào có thế mạnh nào rồi tự gán họ vào từng tác vụ của dự án. |
Không có | |
Kiểm soát thông tin tài chính | CSDL là duy nhất nên TT tài chính chính xác hơn.
ERP cũng có thể giúp tạo ra các bản báo cáo tài chính theo những chuẩn quốc tế như IFRS, GAAP. |
CSDL là duy nhất TT kế toán chính xác.
Hỗ trợ lập BCKT TC và nhiều BC đặc thù, chi tiết. |
|
Kiểm soát lượng tồn kho | ERP giúp kiểm soát xem trong kho còn bao nhiêu hàng, hàng nằm ở đâu, nguyên vật liệu còn nhiều ít ra sao. Có kế hoạch cung ứng hợp lý. Giúp giảm chi phí, giảm số người cần thiết, tăng nhanh tốc độ làm việc. BP cung ứng cũng có thể truy cập để lên KH, BP kế toán cũng có thể truy cập, hạch toán.
|
Giúp theo dõi hàng trong từng kho, định mức tồn kho…Nhưng không kết nối được thông tin với BP cung ứng trong việc lên KH. | |
Chuẩn hóa hoạt động về nhân sự | ERP có thể theo dõi sát sao giờ làm việc, giờ ra về, khối lượng công việc từng nhân viên đã làm là bao nhiêu (để tính lương và các phúc lợi), ngay cả khi những người nhân viên đó làm việc trong nhiều bộ phận khác nhau, ở nhiều khu vực địa lý khác nhau. Nhân viên cũng vui hơn vì với ERP, công ty có thể trả lương cho họ đúng thời gian hơn. | Vẫn theo dõi được nhưng khá phức tạp khi áp dụng nhiều hình thức lương khác nhau, nhân viên làm ở nhiều khu vực khác nhau. Thậm chí, hiện nay nhiều PMKT yếu về phần hành tiền lương, vẫn phải làm trên Excel. | |
Giao tiếp, xã hội hóa việc liên lạc trong công ty | ERP còn có chức năng như một mạng xã hội, các nhân viên, BP có thể chat với nhau để kiểm tra, truy vấn thông tin. | Không có |
Thị trường ERP ở Việt Nam
Nếu như năm 2006, thị trường ERP dường như chỉ có Oracle chiếm lĩnh thị trường doanh nghiệp (DN) lớn lẫn DN vừa và nhỏ thì năm 2007 thị trường ERP Việt Nam (VN) thực sự trở nên sôi động, đánh dấu bằng việc tham gia của một loạt các “đại gia” ERP như: SAP, Tectura, Atos, Soltius, IBM…
Nổi bật phải nói đến SAP – nhà cung cấp giải pháp quản trị DN số 1 thế giới đã nhanh chóng ký kết đối tác chiến lược với chính những nhà tư vấn triển khai giải pháp ERP của Oracle là FPT, Pythis… Bên cạnh đó, SAP còn phát triển đối tác đào tạo tại VN và phối hợp với các trường đại học để cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển lâu dài.
Các DN nước ngoài đi đầu trong giải pháp ERP một cách mạnh mẽ cũng là bởi họ nhìn rõ nhu cầu thị trường. Các DN, nhất là các tập đoàn, công ty lớn phải chịu sức ép cạnh tranh từ gia nhập WTO và niêm yết trên thị trường chứng khoán hiểu rõ sự cần thiết phải ứng dụng ERP. Các DN tư nhân lớn như Kinh Đô, Phong Phú, PV Drilling… đã nhập cuộc với các hợp đồng lên tới hàng triệu USD và sẵn sàng cho cuộc cải cách lớn từ quản lý theo từng giai đoạn sang quản lý tổng thể, đặc biệt với các DN thuộc lĩnh vực có tính cạnh tranh cao như: ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông và một số cơ quan chính phủ
Không chỉ quan tâm tới những khách hàng lớn, các nhà sản xuất còn có sự đầu tư nhất định cho thị trường DN vừa và nhỏ VN với những gói sản phẩm giá cả phải chăng, dễ dàng và nhanh chóng triển khai. Sự kiện nổi bật trong thời gian qua là Công ty CP MISA đã triển khai thành công gói mini ERP cho DN vừa và nhỏ và đã đạt giải Sao Khuê 2013.
Đây là phần mềm online tích hợp nhiều tính năng quản trị doanh nghiệp như tính năng quản trị tài chính kế toán, quản trị nhân sự, quản trị bán hàng tới quản trị truyền thông, công việc, tri thức, sáng kiến, hành chính… Có thể thấy AMIS.VN như một giải pháp ERP thu nhỏ. Điểm đáng chú ý là mức giá mà MISA công bố phù hợp triển khai cho mọi loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc mọi lĩnh vực: thương mại, dịch vụ, sản xuất, xây dựng, chỉ tương đương cước sử dụng điện thoại di động.
Hạn chế của ERP
Một trong những lý do khiến dự án ERP bị thất bại là trong khâu tích hợp và ứng dụng vào thực tiễn chứ hiếm khi bị thất bại do thiếu tiền hay những vấn đề tài chính khác. ERP giúp các công ty tiết kiệm được một khoản chi phí khá lớn so với việc thực hiện công việc thủ công, nhưng sẽ là lãng phí nếu có phần mềm mới những không chịu thay đổi cách thức vận hành. Bởi các DN hiện nay thường quản lý riêng lẻ các quá trình, mỗi quá trình có thể có những phần mềm riêng. Phương thức quản lý này có thể không hiệu quả bằng quản lý thống nhất, nhưng nó đơn giản. Với ERP, khi một nhân viên nhập liệu sẽ thấy được những thông tin có liên quan của khách hàng, chẳng hạn như liệu người đó có trả tiền cho thứ mà họ mới mua hay chưa, mức đánh giá tín dụng của người đó ra sao, người đó đã từng mua những gì, và có thể họ sẽ phải update những thông tin này luôn. Bên kho bãi cũng phải cập nhật thông tin lên Internet (hoặc mạng nội bộ) thường xuyên chứ họ không chỉ làm việc với giấy tờ như trước nữa. …
ERP minh bạch hóa mọi thứ, tất cả đều được hệ thống quản lý nên chuyện tham nhũng rất khó xảy ra, và chính điều này khiến một số cá nhân trong công ty từ chối sử dụng phần mềm mới. Việc đưa ERP có thể giúp ích cho doanh nghiệp, cho khách hàng, nhưng lại làm những nhân viên này mất đi “thu nhập ngoài luồng” của mình. Đây cũng là điều mà các công ty rất lo lắng bởi nó dẫn đến sự thất bại của dự án tích hợp ERP.
ERP cũng có những hạn chế nhất định ngay cả với các phân hệ của chính mình. Có một số công ty chỉ dùng ERP nhưng không thể đáp ứng được hết nhu cầu của họ, nên phải dùng thêm một hoặc một số phần mềm khác. Khi đó, có thể gặp vấn đề là làm sao ERP tích hợp tốt với các giải pháp bên ngoài này, từ việc trao đổi dữ liệu cho đến quy trình làm việc.
Ngoài ra, một lý do khiến ERP thường bị thất bại khi triển khai mặc dù doanh nghiệp đã chi rất nhiều tiền, đó là những người lãnh đạo không rành về hệ thống. Họ chỉ biết rõ nhu cầu của mình, và chỉ đạo xuống cho bên IT thực hiện. Bên IT lại không rõ về quy trình của doanh nghiệp cũng như các yêu cầu kinh doanh nên lại gặp khúc mắc khi triển khai.
Đề xuất: Có nên ứng dụng ERP trong việc xây dựng một mô hình thực hành doanh nghiệp ảo cho cả chuyên ngành QTKD và Kế toán?
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TỈNH ĐIỆN BIÊN
Trong cơ chế kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập quốc tế các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có nhiều cơ hội tiếp cận các nguồn vốn kinh doanh nên việc sử dụng các nguồn vốn đã huy động được là đặc biệt quan trọng. Thế mà, việc sử dụng các nguồn vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nước ta nói chung và các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Điện Biên nói riêng trong thời gian qua lại chưa thực sự có hiệu quả. Vì thế các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Điên Biên cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh để phát triển bền vững trong cơ chế thị trường.
- Thực trạng sử dụng vốn kinh doanh và những nguyên nhân
* Các vấn đề lý luận
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Nhiều nhà quản trị quan niệm hiệu quả được xác định bởi tỉ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Hiệu quả sử dụng vốn là hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động, đó là lĩnh vực sử dụng vốn. Giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng: hiệu quả kinh doanh tổng hợp là kết quả tổng hợp của hiệu quả sử dụng các nguồn lực, trong đó có hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện tiền đề góp phần tạo ra hiệu quả kinh doanh tổng hợp.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Điện Biên cần chu ý các chỉ tiêu chủ yếu sau:
– Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh: Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu đồng lợi nhuận được tạo ra khi bỏ ra một đồng vốn kinh doanh.
– Số vòng quay của tổng vốn kinh doanh: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh mà doanh nghiệp đem vào kinh doanh quay được mấy vòng trong kỳ
– Sức sản xuất của một đồng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định đem lại mấy đồng doanh thu.
– Sức sinh lời của một đồng vốn cố định: Chỉ tiêu này cho biết một đồng lợi nhuận được tạo ra cần hao phí bao nhiêu đồng vốn cố định
– Số vòng luân chuyển vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ tính toán.
– Sức sinh lời của một đồng vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
* Thực trạng sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Điện Biên:
Theo số liệu điều tra doanh nghiệp trong ấn phẩm kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Điện Biên giai đoạn 2009 – 2011 do Cục thống kê Điên Biên công bố năm 2012 thì tính đến hết ngày 1/1/2012 Điện Biên có 740 doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động với quy mô vốn nằm ở nhiều mức khác nhau nhưng có thể nói hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Điện Biên có quy mô vốn nhỏ chủ yếu nằm trong khoảng từ 1 đến 5 tỷ đồng. Cụ thể trong năm 2012 có số liệu sau:
* Từ dưới 1 tỷ đồng chiếm 12,4%.
* Từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng chiếm 45,5%.
* Từ 5 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng chiếm 18,9%.
* Từ 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng chiếm 23,2%.
Theo cách chia của Cục Thống kê Điện Biên thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Điện Biên chia có 03 lĩnh vực là: Nông – Lâm – Thủy sản, Công nghiệp – Xây dựng, Thương mại – Dịch vụ do đó tác giả sử dụng cách chia này để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp
– Các doanh nghiệp Nông – Lâm – Thủy sản
+ Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh: Mức doanh lợi tổng vốn kinh doanh trung bình 5 năm của các doanh nghiệp này là 0,29%/năm kém hơn trung bình cả nước 22,3 lần.
+ Số vòng quay của tổng vốn kinh doanh: Số vòng quay của tổng vốn kinh doanh trung bình 5 năm là 0,2138 vòng/năm kém hơn trung bình cả nước 2,4 lần.
+ Sức sản xuất của một đồng vốn cố định: Sức sản xuất vốn cố định trung bình trong 5 năm là: 0,266 đồng kém hơn cả nước 28,1 lần.
+ Sức sinh lời của một đồng vốn cố định: Mức sinh lời trung bình của một đồng vốn cố định trong 5 năm là 0,0037 đồng kém hơn cả nước 26,2 lần.
+ Số vòng luân chuyển vốn lưu động: Số vòng quay trung bình trong 5 năm của một đồng vốn lưu động trong các doanh nghiệp là 1,071 vòng/năm kém hơn cả nước 1,41 lần.
+ Sức sinh lời của một đồng vốn lưu động: Mức sinh lời của một đồng vốn lưu động trong 5 năm là 0,0147 đồng kém hơn trung bình cả nước 13,1 lần.
– Các doanh nghiệp Công nghiệp – Xây dựng
+ Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh: Mức doanh lợi của tổng vốn kinh doanh trung bình 5 năm của các doanh nghiệp là 2,188%/năm kém hơn trung bình cả nước 2,1 lần.
+ Số vòng quay của tổng vốn kinh doanh: Số vòng quay tổng vốn kinh doanh trung bình 5 năm là 1,0612 vòng/năm cao hơn hơn trung bình cả nước.
+ Sức sản xuất của một đồng vốn cố định: Sức sản xuất trung bình của một đồng vốn cố định trong trong 5 năm là 1,829 đồng kém hơn trung bình cả nước 1,1 lần.
+ Sức sinh lời của một đồng vốn cố định: Mức sinh lời trung bình của một đồng vốn cố định trong 5 năm là 0,0378 đồng kém hơn trung bình cả nước là 2,48 lần.
+ Số vòng luân chuyển vốn lưu động: Số vòng quay trung bình của một đồng vốn lưu động trong 5 năm là 2,525 vòng/năm cao hơn trung bình cả nước 1,4 lần.
+ Sức sinh lời của một đồng vốn lưu động: Mức sinh lời của một đồng vốn lưu động trong 5 năm là 0,052 đồng kém hơn trung bình cả nước 1,67 lần.
– Các doanh nghiệp Thương mại – Dịch vụ
+ Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh: Doanh lợi của tổng vốn kinh doanh trung bình 5 năm là 1,11%/năm kém hơn trung bình cả nước 1,6 lần.
+ Số vòng quay của tổng vốn kinh doanh: Số vòng quay tổng vốn kinh doanh trung bình là 1,16 vòng/năm cao hơn trung bình cả nước.
+ Sức sản xuất của một đồng vốn cố định: Sức sản xuất trung bình của một đồng vốn cố định trong 5 năm là 3,794 đồng cao hơn trung bình cả nước là 1,37 lần.
+ Sức sinh lời của một đồng vốn cố định: Mức sinh lời trung bình của một đồng vốn cố định trong 5 năm là 0,0364 đồng kém hơn trung bình cả nước 1,45 lần.
+ Số vòng luân chuyển vốn lưu động: Số vòng quay trung bình của một đồng vốn lưu động trong 5 năm là 1,674 vòng/năm cao hơn trung bình cả nước 1,16 lần.
+ Sức sinh lời của một đồng vốn lưu động: Mức sinh lời của một đồng vốn lưu động trong 5 năm là 0,0162 đồng kém hơn trung bình cả nước là 1,69 lần.
Như vậy, khi phân tích thực trạng sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Điện Biên bằng các chỉ tiêu đánh giá và so sánh với trung bình của cả nước ta có thể khẳng định các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Điện Biên sử dụng không có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh của mình.
* Thực trạng này là do một số nguyên nhân sau:
Cơ cấu vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Điện Biên là không hợp lý. Trong lĩnh vực Nông – Lâm – Thủy sản tỷ lệ đầu tư cho vốn cố định quá cao gần 80% dẫn đến không tận dụng hết công suất của các tài sản, tăng chi phí sản xuất trong khi vốn lưu động chỉ có 20% điều này làm cho các doanh nghiệp khó có khả năng tận dụng các cơ hội kinh doanh. Trong lĩnh vực Công nghiệp và Xây dựng thì vốn đầu tư cho tài sản cố định thấp chỉ chiếm gần 57% dẫn tới thiếu máy móc không làm tăng được năng suất làm doanh thu và lợi nhuận giảm. Trong lĩnh vực Thương mại – Dịch vụ tỷ lệ đầu tư cho vốn lưu động quá cao chiếm gần 70% trong khi vốn cố định chiếm hơn 30% điều này làm cho các doanh nghiệp khó có khả năng cao năng suất và chất lượng do sự áp dụng khoa học kỹ thuật ít.
Theo báo cáo của Cục Thống kê Điện Biên hiện nay, đa số các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang sử dụng máy móc, thiết bị còn lạc hậu 76% máy móc, dây chuyền công nghệ được sản xuất từ những năm 1950 – 1960, 73% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% số thiết bị là đồ tân trang… Tóm lại, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chỉ có 10% hiện đại, 40% trung bình và 50% là lạc hậu và rất lạc hậu, tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới chỉ có 2%, việc đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chi phí khoảng 0,2% – 0,3% tổng doanh thu. Điều này dẫn tới các doanh nghiệp không tiết kiệm được nguyên vật liệu, chi phí bảo trì, bảo dưỡng lớn, không nâng cao được năng suất dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn cố định nói riêng không cao.
Trình độ lao động quản lý và lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm tại các doanh nghiệp là không cao. Theo báo cáo của Cục thống kê Điện Biên về trình độ chủ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Điện Biên thì trong tổng số 740 doanh nghiệp có 30,1% chủ doanh nghiệp có trình độ đại học và cao đẳng, 35,8% chủ doanh nghiệp có trình độ trung cấp, 23,5% chủ doanh nghiệp có trình độ sơ cấp và 10,6% chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo. Thực trạng này dẫn đến các phương án sản xuất kinh doanh sẽ không thực sự hữu hiệu, việc bố trí các khâu, các giai đoạn sản xuất không thực sự khoa học, việc xác định nhu cầu vốn kinh doanh, bố trí cơ cấu vốn không hợp lý, vốn trong quá trình thanh toán bị chiếm dụng, …và sẽ gây lãng phí về nhân lực, vốn, nguyên vật liệu, …
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp trong tỉnh đã hướng công việc kinh doanh của mình theo thị trường. Tuy nhiên, lối kinh doanh nhỏ lẻ, truyền thống, chộp giật, manh mún, thiếu cái nhìn dài hạn vẫn còn ăn sâu trong tâm trí chủ các doanh nghiệp. Điều này được chứng minh các sản phẩm của các doanh nghiệp tỉnh Điện Biên chủ yếu là tiêu thụ trong tỉnh, người tiêu dùng cả nước rất ít biết đến các thương hiệu tại Điện Biên, chưa có một sản phẩm Công nghiệp – Dịch vụ nào được xây dựng thương hiệu một cách bài bản
Là một tỉnh miền núi phía Bắc, lại nằm ở điểm cuối cùng của quốc lộ 6 nên việc giao lưu vận chuyển hàng hóa rất khó khăn. Quá trình vận chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu từ Điện Biên đi các tỉnh và từ các tỉnh Điện Biên chủ yếu là qua quốc lộ 6, tại tỉnh chưa có tuyến đường sắt đi qua, không vận chuyển được bằng đường thủy, đường hàng không chỉ dành để phục vụ hành khách nên chi phí vận chuyển hàng hóa khá cao, ngoài ra do đường núi quanh co, nhiều đèo dốc lên rủi ro cho việc vận chuyển lớn vấn đề này cũng làm tăng chi phí của các doanh nghiệp.
- Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Điện Biên.
* Điều chỉnh lại cơ cấu vốn giữa vốn cố định và vốn lưu động trong các ngành kinh doanh
Các doanh nghiệp nên xem xét cần tiến hành thanh lý, nhượng bán tài sản cố định không cần dùng hoặc đã khấu hao hết để thu hội vốn nhằm tái đầu tư vào tài sản cố định bổ xung cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho việc cất giữ bảo quản tài sản cố định đó. Những loại tài sản nào doanh nghiệp bắt buộc phải mua thì sẽ tiến hành đầu tư để nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành.
Với những tài sản nào cần thiết nhưng có tính mùa vụ các doanh nghiệp có thể tính đến phương án đi thuê nhằm tiết kiệm vốn đầu tư mà vẫn đem lại hiệu quả.
Các doanh nghiệp phải thường xuyên đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả thường xuyên biến đổi, hiện tượng hao mòn vô hình thường xuyên xảy ra. Việc thường xuyên đánh giá và đánh giá lại tài sản giúp cho các doanh nghiệp xác định mức khấu hao và thời gian khấu hao hợp lý để thu hồi vốn, xử lý kịp thời những tài sản cố định bị mất giá để chống sự thất thoát vốn.
Các doanh nghiệp nên lập kế hoạch đầu tư phù hợp với nhu cầu sử dụng thực tế. Thực tế cho thấy trong một vài năm vừa qua tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Điện Biên có một số tài sản cố định được đầu tư vượt so với nhu cầu sử dụng từ đó làm cho hiệu quả sử dụng của tài sản cố định bị giảm, hàm lượng vốn cố định trong mỗi đồng doanh thu tăng lên điều này đã ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên hiện tượng lãng phí vốn cố định.
* Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp
Tổ chức thường xuyên các hội chợ công nghệ và thiết bị địa phương, kể cả các sàn giao dịch công nghệ điện tử để phục vụ hiệu quả hơn nhu cầu kết nối cung cầu về công nghệ. Nên có các hình thức hỗ trợ, như hỗ trợ lãi suất vay, cho vay ưu đãi, bảo lãnh vốn vay giúp doanh nghiệp xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ. Đẩy mạnh chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội nông thôn miền núi. Hỗ trợ tổ chức đào tạo ngắn hạn cho lãnh đạo doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ cao về quản trị công nghệ.
Các doanh nghiệp phải đầu tư một cách đồng bộ, công suất hoạt động máy lớn, số giờ máy và số ca của máy được hoạt động một cách triệt để, phải có trách nhiệm bảo quản, bảo dưỡng máy móc tốt, định mức khấu hao đúng đắn. Đối với những công nghệ cũ, lỗi thời, đã khấu hao hết các doanh nghiệp nên thanh lý để đầu tư vào các máy móc khác.
* Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và chất lượng đội ngũ lao động
Như đã phân tích ở phần thực trạng trình độ cán bộ quản lý ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa Điện Biên khá thấp, số cán bộ đã được qua đào tạo, số cán bộ có chuyên môn về lĩnh vực kinh doanh ít điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần sử dụng kết hợp nhiều phương pháp đào tạo trong đó có phương pháp tự đào tạo nghĩa là các công nhân sẽ tự đào tạo cho nhau để hoàn thành công việc, doanh nghiệp chỉ giám sát, phân tổ, nhóm và đưa ra chỉ tiêu. Ngoài ra các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao nghiệp vụ quản lý, trình độ của các cán bộ quản lý cấp thấp những người này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, nên để cho nhóm đối tượng này đi đào tạo các lớp ngắn hạn chuyên sâu về: năng lực quản lý tổ chức, quản trị công nghệ, …
* Xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xây dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp
Trung tâm xúc tiến thương mại trực thuộc Sở Công thương của tỉnh nên tích cực tổ chức các hội chợ thương mại để giới thiệu các sản phẩm cho người tiêu dùng biết từ đó thúc đẩy việc tiêu thụ của người tiêu dùng.
Ngoài sự hỗ trợ về mặt cơ chế của Nhà nước, muốn khẳng định chỗ đứng trên thị trường, nhất thiết các doanh nghiệp phải xây dựng, đăng ký thương hiệu sản phẩm hàng hóa cho riêng mình. Tỉnh Điện Biên có gạo khá nổi tiếng, giống như một số mặt hàng chè Tân Cương, vải Thanh Hà, rượu Vang Đà Lạt… Gạo Điện Biên khá quen thuộc với người tiêu dùng tại các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, thủ đô Hà Nội… Xây dựng, phát triển thương hiệu gạo Điện Biên là việc làm cấp thiết hiện nay.
* Đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm giúp doanh nghiệp giảm chi phí
Tỉnh Điện Biên cần có chính sách ưu tiên nguồn vốn đầu tư sửa chữa, nâng cấp hệ thống đường giao thông từ khu vực trung tâm tới các cặp cửa khẩu chính, phụ. Hiện nay, tuyến đường tới các cặp cửa khẩu chưa thực sự được thông thương, nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân 2 nước buôn bán trao đổi hàng hóa cả mùa khô và mùa mưa. Do đó, hoạt động xúc tiến thương mại bị hạn chế.
Nâng cấp, cải tạo tuyến đường quốc lộ 6 nếu cần khắc phục hoặc sửa chữa thì tỉnh nên kiến nghị ngay với Trung ương để kịp thời sử lý. Cần làm thêm nhiều đường lánh nạn trên đèo Pha Đin.
Tích cực liên kết với các doanh nghiệp ngoài tỉnh để đầu tư xây dựng nhà máy sử lý nước đặc biệt là các dự án của ngân hàng thế giới (WB), dự án JACA của Nhật để đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu tiêu dùng của dân và sản xuất của các doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ hiện đại, triển khai tự động hoá trong khai thác, chấp nhận và tin học hoá các công đoạn bưu chính, phát triển kinh doanh từ các dịch vụ mới, dịch vụ lai ghép, dịch vụ tài chính dựa trên mạng bưu chính điện tử.
Là các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn của một tỉnh miền núi nhưng ở đây cũng có nhiều tiềm năng để các doanh nghiệp khai thác do đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoàn toàn có thể từng bước khẳng định hơn nữa vị thế của mình trên thị trường trong nước cũng như bắt kịp vòng xoáy hội nhập quốc tế và việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề rất cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Thành Độ và Nguyễn Ngọc Huyền (2006), Giáo trình quản trị kinh doanh, Nhà xuất bản Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
- Đặng Công Thức (2012), “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Điện Biên” Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
TS. Đặng Công Thức
DU LỊCH CỘNG ĐỒNG SƠN LA THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẮM PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TỈNH SƠN LA
Có thể nói du lịch cộng đồng là một loại hình du lịch mới ở Việt Nam, nó không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế và xã hội cho cộng đồng mà còn góp phần vào công tác bảo tồn các nét văn hóa bản địa và giữ gìn cảnh quan tự nhiên của các địa phương và các vùng miền.
Khái niệm du lịch cộng đồng bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỷ 20, mặc dù xuất hiện rất nhiều cách nhìn nhận và hiểu biết khác nhau về khái niệm này nó tùy thuộc vào tác giả, khu vực địa lý hay do các nghiên cứu/dự án cụ thể. Song định nghĩa phổ biến về du lịch cộng đồng là:
“Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mang lại cho du khách những trải nghiệm về bản sắc cộng đồng địa phương, trong đó cộng đồng địa phương tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch, được hưởng lợi ích kinh tế – xã hội từ hoạt động du lịch và có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên, môi trường, bản sắc văn hóa của cộng đồng”
Từ khái niệm trên có thể thống nhất và hiểu du lịch cộng đồng là loại hình du lịch bền vững dựa vào cộng đồng địa phương. Du lịch cộng đồng là một cách tiếp cận nhằm tạo ra lợi nhuận cao nhất cho người dân địa phương, những người sử dụng du lịch như một công cụ tạo nguồn lợi kinh tế. Du khách phải trả tiền khi họ đến tham quan khu vực và khoản tiền này được sử dụng để bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiên và giúp phát triển kinh tế – xã hội của địa phương đó.
Du lich cộng đồng có nhiều tác động tích cực trong đó phần lớn các tác động hình thành và phát huy tác dụng theo hướng đáp ứng các nguyên tắc phát triển bền vững đó là mang lại các lợi ích xã hội, môi trường và kinh tế. Cụ thể:
Du lịch cộng đồng góp phần nâng cao thu nhập cho các cộng đồng địa phương đặc biệt là vùng sâu vùng xa nơi nghèo đói được thấy rõ rệt.
Thứ hai, du lịch cộng đồng thúc đẩy sự công bằng trong phát triển du lịch với việc mang lại cho cộng đồng toàn bộ những lợi ích từ việc cung cấp các dịch vụ du lịch và cơ sở hạ tầng.
Thứ ba, các doanh nghiệp du lịch cộng đồng tạo ra các cơ hội việc làm cho các địa phương. Du lịch cộng đồng góp phần làm thay đổi cơ cấu việc làm địa phương và cải thiện lao động ở các địa phương và giảm di cư lao động từ nông thôn ra đô thị.
Thứ tư, du lịch cộng đồng góp phần phục hồi và phát triển các giá trị văn hóa và truyền thống kể cả bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Du lịch cộng đồng tạo ra các cơ hội để giao lưu văn hóa và kinh tế giữa Việt Nam và các nước khác. Đây chính là nhân tố quan trọng để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và thúc đẩy các cơ hội phát triển kinh tế ở các vùng nghèo.
Sơn La là một tỉnh có diện tích lớn, địa hình chia cắt mạnh, quỹ đất nông nghiệp rất hạn chế. Hoạt động kinh tế chủ yếu của tỉnh Sơn La là nông – lâm nghiệp, lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển nên đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn. Để nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh, cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ. Một trong những hướng quan trọng để phát triển kinh tế dịch vụ là phát triển du lịch trên cơ sở khai thác và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng.
Bên cạnh đó, tỉnh Sơn La có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch cộng đồng như: bản sắc văn hóa và phong tục tập quán độc đáo của 12 dân tộc anh em, hệ thống di tích lịch sử, lễ hội phong phú, cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn … nhưng những tiềm năng đó chưa được khai thác hiệu quả để phát triển du lịch.
Do vậy bài viết này đề cập đến thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại Tỉnh Sơn La trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay cũng như đưa ra một số giải pháp góp phần phát triển hoạt động du lịch cộng đồng tại Tỉnh Sơn La.
* Thực trạng phát triển du lịch tỉnh Sơn La
Sơn La là tỉnh thuộc vùng núi Tây Bắc Việt Nam, phía Bắc giáp Yên Bái, Lai Châu; phía Đông giáp Phú Thọ và Hoà Bình; phía Nam giáp Thanh Hoá và Lào; phía Tây giáp Điện Biên. Diện tích 14.125 km2, địa hình phong phú đa dạng bao gồm chủ yếu là núi cao và các cao nguyên, trải dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm 1 thành phố và 11 huyện.
Du lịch Sơn La có manh nha phát triển từ cuối những năm của thập kỷ 90 và đến nay đã đạt được các kết quả kinh tế đáng khích lệ. Lượng khách đến thăm Sơn La tăng đáng kể trong những năm gần đây:
Năm 2011, Sơn La đón 410.000 du khách (trong đó có 37.500 lượt khách quốc tế), tổng doanh thu dịch vụ du lịch đạt 230 tỷ đồng. Năm 2012, Sơn La đón 1.115.000 lượt khách (trong đó có 42.000 lượt khách quốc tế, 493.000 lượt khách nội địa, 580.000 lượt khách đi về trong ngày), doanh thu dịch vụ du lịch đạt 501,7 tỷ đồng. Năm 2013 lượng khách du lịch đến Sơn La đạt 1.215.000 lượt (trong đó có 43.000 lượt khách quốc tế, 615.000 lượt khách đi và về trong ngày), tổng doanh thu dịch vụ du lịch đạt 601,75 tỷ đồng. Năm 2015, tỉnh Sơn La đón 1.597.000 lượt khách du lịch (Trong đó: đón 37.000 lượt khách quốc tế; 790.000 lượt khách đến trong ngày và 807.000 lượt khách nghỉ tại các cơ sở lưu trú du lịch), tổng doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 645 tỷ đồng.
Hiện tại, Du lịch Sơn La được đánh giá ở một góc độ tích cực hơn, không chỉ là điểm dừng chân cho du khách trong chương trình du lịch Hà Nội – Điện Biên Phủ. Các đoàn khách ngủ đêm tại một trong những khách sạn lớn của Sơn La, tham quan các thắng cảnh, các bản du lịch cộng đồng tại Mộc Châu, hay các di tích lịch sử tại thành phố Sơn La, các công trình kiến trúc, du lịch văn hóa tại các vùng phụ cận.
Cùng với sự gia tăng của khách du lịch, các cơ sở lưu trú của Sơn La phát triển với hệ thống nhà nghỉ, khách sạn. Sự phát triển này đã bước đầu giải quyết nhu cầu ăn nghỉ của khách du lịch. Đến hết tháng 12 năm 2012 trên địa bàn Tỉnh Sơn La có 110 cơ sở lưu trú đang hoạt động với 1572, công suất sử dụng phòng đạt 63%, trong đó có 2 khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao. Và tính đến 20/12/2015, trên địa bàn tỉnh Sơn La có 150 cơ sở lưu trú du lịch với: 24 Khách sạn (trong đó có: 01 khách sạn 3 sao; 12 khách sạn 2 sao và 11 khách sạn 1 sao); 118 Nhà nghỉ Du lịch và 08 Homestay. Trong đó có gần 1900 buồng, với 3350 giường. Các dịch vụ trong các cơ sở lưu trú đang được bổ sung, chất lượng phục vụ tốt hơn.
* Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tỉnh Sơn La
Từ năm 2004, tổ chức SNV đã hỗ trợ hoạt động phát triển du lịch tại địa bàn tỉnh Sơn La thông qua việc cung cấp các dịch vụ tư vấn kỹ thuật và nâng cao năng lực cho Sở Thương mại và Du lịch trong việc: xây dựng đề xuất tuyến du lịch và chương trình phát triển du lịch cộng đồng; nâng cao nhận thức, tăng cường sự hiểu biết và kỹ năng xác định, lựa chọn các điểm du lịch cộng đồng tiềm năng được khảo sát.
Từ năm 2007 Tổ chức phát triển Hà Lan – SNV đã phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh triển khai chương trình tư vấn kỹ thuật cho tỉnh Sơn La lựa chọn và xây dựng mô hình du lịch cộng đồng và du lịch nông nghiệp tại xã Chiềng Yên thuộc huyện Mộc Châu nhằm nâng cao kiến thức cho cộng đồng về tổ chức và quản lý du lịch cộng đồng, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân địa phương thông qua hoạt động du lịch cộng đồng. Tổ chức SNV đã tư vấn cho cộng đồng: xây dựng cơ chế quản lý du lịch cộng đồng và cơ chế chia sẻ thu nhập từ du lịch cho người dân, đặc biệt là người nghèo; nâng cao năng lực cho cộng đồng xây dựng sản phẩm và dịch vụ du lịch, hỗ trợ đào tạo các kỹ năng phục vụ cơ bản, xây dựng và phát hành tập gấp giới thiệu điểm đến…
Căn cứ Quyết định 993/QĐ-UBND ngày 29/4/2010 của UBND tỉnh Sơn La về việc phê duyệt Dự án hỗ trợ xây dựng 04 bản du lịch cộng đồng trong 2 năm 2011 và 2012 tại huyện Mộc Châu và thành phố Sơn La. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai thực hiện dự án hỗ trợ 4 bản du lịch cộng đồng giai đoạn I năm 2011 – 2012 (Bản Nà Bai – xã Chiềng Yên – nay thuộc Huyện Vân Hồ; Bản Áng – Thị trấn Mộc Châu, Bản Bó, bản Hụm – Thành phố Sơn La). Giai đoạn II năm 2012 Dự án hỗ trợ 04 bản du lịch cộng đồng tiếp tục được triển khai với 3 chương trình lớn: Hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu cho hoạt động du lịch cộng đồng; Hỗ trợ khôi phục, bảo tồn bản sắc văn hóa gắn với dịch vụ du lịch. Với mục tiêu ban đầu nhằm nâng cao nhận thức, năng lực quản lý cho cán bộ làm công tác du lịch ở các huyện, thành phố và các xã, phường, bản, tại thành phố Sơn La và huyện Mộc Châu. Nâng cao nhận thức cho cộng đồng xã, bản trong việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, bảo vệ môi trường, tăng nguồn thu nhập góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhân dân trong bản.
Từ năm 2011 đến cuối năm 2012, Sở Văn hóa, Thể thao và du lịch Sơn La đã tiến hành triển khai các hoạt động của dự án như:
Tổ chức hội nghị hình thành cơ cấu tổ chức, quản lý hoạt động du lịch cộng đồng của 4 bản: Kết quả đã thành lập được 04 Ban chỉ đạo phát triển du lịch cộng đồng của 4 xã, có quy chế hoạt động rõ ràng; thành lập 4 Ban quản lý du lịch cộng đồng của bản, hoạt động theo quy chế của ban; Bản có quy ước hoạt động du lịch cộng đồng chi tiết.
Tổ chức các lớp tập huấn: thông tin về Luật du lịch, các chủ trương chính sách của nhà nước về phát triển du lịch; Kỹ năng đón tiếp khách; phục vụ buồng; công tác chăm sóc y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo vệ sinh môi trường, chỉnh trang đường làng ngõ xóm; chế biến món ăn, đồ uống; kỹ năng hướng dẫn du lịch; Công tác phòng chống HIV/AIDS…Kết quả, mỗi bản có 30 bà con đã được tập huấn các kiến thức trên, ngoài việc tập huấn về lý thuyết, bà con còn được hướng dẫn triển khai thực tế các kỹ năng như: Thuyết minh, hướng dẫn du lịch, nghiệp vụ nấu ăn, nghiệp vụ dọn buồng.
Hỗ trợ các trang thiết bị cho Ban quản lý Du lịch cộng đồng 4 bản, Xây dựng hệ thống biển báo, Hỗ trợ dọn vệ sinh chỉnh trang đường làng, ngõ xóm… Hỗ trợ cơ sở vật chất cho hoạt động du lịch: Mỗi bản có ít nhất 5 nhà nghỉ (Nhà dân đón khách nghỉ qua đêm) đủ điều kiện đón khách du lịch; 4 nhà văn hoá bản được chỉnh trang, bổ sung trang thiết bị nội thất với các văn hoá phẩm, vật dụng, đồ lưu niệm được trưng bày, hỗ trợ nhà vệ sinh, thùng rác, biển báo được xây dựng; Đường trong thôn, đường mòn đến các điểm du lịch được bảo dưỡng và dọn vệ sinh thường xuyên;
Hỗ trợ khôi phục, bảo tồn bản sắc văn hóa gắn với dịch vụ du lịch: Sưu tầm các lời ca điệu múa truyền thống; Trang thiết bị phục vụ sưu tầm (Máy quay phim, máy ghi âm); Tổ chức biên kịch, đạo diễn và luyện tập; Biên tập ra đĩa CD, lời hát, điệu nhạc truyền thống: Mỗi bản được phục dựng 10 tiết mục văn nghệ để phục vụ khách du lịch; 4 đĩa CD, 4 đĩa DVD lời các bài hát và giai điệu nhạc truyền thống để lưu giữ, bảo tồn; 1 bộ dụng cụ âm nhạc; 10 bộ trang phục truyền thống; Sản xuất được hàng lưu niệm bán cho khách.
Tuyên truyền quảng bá sản phẩm du lịch cộng đồng: Làm tập gấp, tờ rơi giới thiệu về sản phẩm du lịch cộng đồng của 4 bản bao gồm: Biên soạn, thiết kế và in phát hành 4.000 tờ rơi, tập gấp giới thiệu sản phẩm du lịch cộng đồng 4 bản; Làm 2 phóng sự giới thiệu sản phẩm du lịch cộng đồng trên đài truyền hình Tỉnh và Trung ương.
Năm 2015 Ban chỉ đạo phát triển du lịch Sơn La tiếp tục thực hiện triển khai thực hiện giai đoạn II của đề án để xây dựng bản du lịch cộng đồng trở thành sản phẩm du lịch hoàn chỉnh có hiệu quả góp phần vào phát triển kinh tế xã hội bền vững. Với mục đích Đầu tư cơ sở hạ tầng cho các bản còn gặp khó khăn về dường xá nhưng có cảnh quan môi trường đẹp, môi trường thân thiện mến khách. Kêu gọi và thu hút đầu tư vào các bản trọng điểm của các huyện như: Mường La; Mai Sơn; Quỳnh Nhai; Vân Hồ và tập trung trong các lĩnh vực lưu trú, vui chơi, mua sắm, ẩm thực…nhằm tạo thêm nhiều sản phẩm du lịch đi kèm, thu hút khách du lịch, kéo dài thời gian lưu trú và tăng chi tiêu của du khách. Đẩy mạnh xã hội hóa, có các chính sách thu hút đầu tư thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư vào du lịch cộng đồng tại Sơn La. Cụ thể như sau:
Triển khai tiếp tục dự án đường giao thông phát triển du lịch cộng đồng xã Chiềng Yên, Vân Hồ đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 2439/QĐ-UBND ngày 25/10/2011 với tổng mức đầu tư là 44.617 triệu đồng, năm 2014 dự án đã được giao 1.120 triệu đồng từ nguồn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương tại Quyết định số 174/QĐ-UBND ngày 23/01/2014. Đến thời điểm hiện tại giải ngân hết 100% kế hoạch vốn đã giao.
Phối hợp với Ban quản lý dự án ADB tổ chức khảo sát, xây dựng báo cáo đề xuất danh mục dự án cơ sở hạ tầng du lịch trên địa bàn huyện Mộc Châu trình hỗ trợ đầu tư từ nguồn phát triển hạ tầng du lịch của Dự án Giai đoạn IV, tiểu vùng Sông Mê Kông, trong đó tập trung kêu gọi đầu tư dự án tuyến đường du lịch nối từ quốc lộ 43 đi Tân Lập; Dự án xây dựng khu du lịch sinh thái Sao Đỏ trung tâm hành chính huyện Vân Hồ; Khu du lịch cộng đồng Chiềng Yên.
Thẩm định hồ sơ về đất đai, môi trường đối với các dự án phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Sơn La như: Dự án phát triển Làng thanh niên lập nghiệp Púng Bánh, Sốp Cộp; các dự án đầu tư xây dựng khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ; các dự án phát triển khu du lịch, cụm du lịch huyện Mộc Châu, Mường La, Quỳnh Nhai, và Thành phố Sơn La.
Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng và tham quan thác Dải Yếm tại Bản Vặt xã Mường Sang: Nhà đầu tư đã xây dựng mới tuyến đường từ Quốc lộ 43, xuống chân thác với tổng số vốn khoảng 600 triệu đồng. Hiện nhà đầu tư đang dừng triển khai các bước tiếp theo của dự án, dự kiến tiến hành đầu tư xây dựng vào năm 2015 (theo Công văn số 23 ngày 22/4/2014 của Công ty TNHH tập đoàn Đông Dương).
Khai thác phát huy các di sản văn hóa, trong đó điển hình là các di tích lịch sử, văn hóa; phát triển nghề truyền thống; xây dựng mô hình bản du lịch cộng đồng; bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống, tiêu biểu (văn hóa dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân tộc Dao, tạo sự độc đáo, thu hút khách du lịch;
Xây dựng sản phẩm, mô hình tham quan du lịch cộng đồng gắn với các sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng như: Mô hình thăm quan rau hoa chất lượng cao cao; thăm quan những cánh đồng hoa cải; tham quan hoa tam giác mạch; tham quan du lịch và dịch vụ hái quả tại thung lũng mận Nà Ka 100 ha; du lịch trải nghiệm nông nghiệp, tắm trà, tắm lá thuốc; tổ chức phát động phong trào trồng hoa, tạo các tuyến đường, tuyến phố có hoa ban trắng mang đậm bản sắc văn hóa Tây Bắc.
Năm 2015, tổ chức khảo sát bản văn hoá dân tộc Thái trên địa bàn tỉnh Sơn La đánh giá điểm du lịch cộng đồng tại: bản Hùn, xã Chiềng Cọ; bản Hụm, xã Chiềng Xôm. Năm 2016, tỉnh Sơn La sẽ triển khai xây dựng dự án hỗ trợ xây dựng bản du lịch cộng đồng kiểu mẫu.
Tham gia đoàn khảo sát của dự án EU về đánh giá điểm đến, xây dựng sản phẩm du lịch cộng đồng tại huyện Vân Hồ, Mộc Châu, Quỳnh Nhai từ ngày 26-30/5/2015.Tư vấn hỗ trợ Công ty CP và du lịch Thiên Đường Á Châu khảo sát du lịch cộng đồng tại xã Ngọc Chiến huyện Mường La chuẩn bị tổ chức đoàn Famtrip lên Sơn La.
Triển khai các đề tài về “Nghiên cứu nội dung và giải pháp xây dựng mô hình phát triển du lịch cộng đồng nhằm bảo tồn văn hóa, giảm nghèo và bảo vệ môi trường tỉnh Sơn La; Đề tài nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Sơn La; đề tài “nghiên cứu tiềm năng du lịch sinh thái và nhân văn huyện Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La” …
Tổ chức kiểm tra công tác phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh, áp dụng một số gợi ý tiêu chuẩn bản du lịch cộng đồng của dự án EU
* Kết quả việc triển khai du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Sơn La
Việc triển khai du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Sơn La từ năm 2011 – 2015 đạt được những kết quả nhất định, đó là:
Trung bình đón được trên 16.000 lượt khách/năm. Doanh thu và thu nhập từ dịch vụ và du lịch tại cộng đồng đạt 4.000 triệu đồng/năm; Tốc độ tăng doanh thu và thu nhập từ dịch vụ du lịch của cộng đồng xã hội tại điểm triển khai trung bình trên 20%.
Nâng cao nhận thức về du lịch cộng đồng và phát triển du lịch bền vững cho 90% lao động trong vùng có phát triển Du lịch cộng đồng. Nâng cao nhận thức và trình độ quản lý du lịch cộng đồng cho 100% cán bộ quản lý cấp xã và các thành viên ban quản lý du lịch cộng đồng.
Qua triển khai thực hiện dự án nhận thức của nhân dân tại các bản thuộc dự án được nâng lên kéo theo một số bản vệ tinh cũng phát triển và tham gia hoạt động du lịch tại bản. Thông qua chương trình dự án số hộ được trang bị đủ điều kiện về đón tiếp khách cụ thể như: Bản Bó Chiềng An thành phố Sơn La có 05 hộ; bản Hụm Chiềng Xôm thành phố Sơn La 05 hộ; bản Áng xã Đông Sang huyện Mộc Châu có 05 hộ; bản Nà Bai xã Chiềng Yên huyện Vân Hồ có 05 hộ; Tổng số hộ trong dự án hỗ trợ của 4 bản là 20 hộ. Tuy nhiên từ nhận thức của nhân dân các bản có nhiều hộ tự bỏ kinh phí tham gia làm nhà nghỉ tại nhà cụ thể: bản Áng xã Đông Sang 17 hộ; bản Nà Bai xã Chiềng Yên 12 hộ; Bản Bó Chiềng An 10 hộ; bản Hụm 6 hộ; tổng số hộ tham gia là 45. Các bản đều đã thành lập đội văn nghệ riêng và được tập huấn nâng cao về các điệu múa, bài hát truyền thống và duy trì hoạt động thường xuyên biểu diễn phục vụ khách du lịch.
Thu hút được 30% lao động của thôn bản tham gia vào dịch vụ du lịch tại cộng đồng, góp phần tạo việc làm ổn định cho trên 100 lao động và chuyển dịch khoảng 20% thời gian nông nhàn sang các ngành nghề, dịch vụ phục vụ cho phát triển du lịch.
Năm 2015 Các công ty kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh đẩy mạnh hoạt động lữ hành, đưa nhiều đoàn khách trong tỉnh đi thăm quan và đón các đoàn khách đến thăm quan tại Sơn La. Với tổng số trên 1000 lượt khách.
Năm 2015, tổng số lao động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn toàn tỉnh ước đạt 1800 người. Trong đó, qua đào tạo khoảng 55%.
Tóm lại, nhằm khai thác có hiệu quả các tài nguyên du lịch, phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại các bản văn hoá để tạo thêm nguồn thu nhập góp phần xoá đói giảm nghèo. Với việc áp dụng phát triển mô hình du lịch cộng đồng trong thời gian vừa qua ngành du lịch Sơn La đã tích cực triển khai các hoạt động và bước đầu đã mang lại hiệu quả nhất định: Hình thành và phát triển loại hình du lịch mới, bổ sung điểm du lịch, dịch vụ du lịch trong chương trình du lịch Tây Bắc, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, góp phần nâng cao vị thế của du lịch Sơn La trên thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại trong hoạt động du lịch cộng đồng như:
Công tác tuyên truyền giúp nâng cao nhận thức của người dân về du lịch cộng đồng còn hạn chế; Môi trường có nguy cơ bị ô nhiễm; Bản sắc văn hoá truyền thống đang có dấu hiệu bị mai một; Tài nguyên thiên nhiên sẽ bị xâm hại do những lợi nhuận từ du lịch; Công tác vệ sinh thôn, bản bảo vệ cảnh quan môi trường thiên nhiên còn yếu. Không có thùng đựng rác, không có nơi đổ rác quy định … Môi trường xã hội thay đổi, khi phát triển du lịch cộng đồng nếu không được quản lý tốt sẽ làm gia tăng tệ nạn xã hội.
Lợi ích từ hoạt động du lịch chưa được phân bổ hài hoà, hợp lý giữa người dân ở khu vực thị trấn và người dân ở các làng bản. Chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động du lịch còn thấp đặc biệt là người dân ở các thôn, bản đang tham gia vào hoạt động du lịch cộng đồng.
Các bản du lịch cộng đồng cũng đã có khách du lịch đến thăm quan, người dân cũng đã có doanh thu thông qua một số dịch vụ như múa hát, phục vụ ăn uống nhưng chưa đáng kể. Tuy nhiên, phát triển du lịch cộng đồng hiện nay tại các điểm này chưa rõ, chưa có tổ chức, chưa có nghiệp vụ phục vụ du lịch và tiến triển còn chậm, chất lượng còn chưa đạt được như mong muốn do các nguyên nhân chính như sau: Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật ở bản còn quá sơ sài chưa đảm bảo tiêu chuẩn, như: Chưa có hệ thống nước sạch; Bản có nhà cửa đẹp nhưng tập quán sinh hoạt đặc thù như nuôi động vật gần nhà (trâu, bò dưới gầm sàn) gây mất vệ sinh, đun nấu trực tiếp trong nhà, nếp sinh hoạt bề bộn . Vì vậy những bản này cần được hỗ trợ xây dựng quy chế, ban quản lý, các tiêu chí về du lịch về vệ sinh môi trường và các kỹ năng cho cộng đồng để đón tiếp khách.
Năng lực làm du lịch của người dân ở thôn, bản còn ở mức thấp, những kiến thức cơ bản trong hoạt động du lịch chưa được đào tạo nên kỹ năng làm du lịch còn yếu dẫn đến chất lượng, sản phẩm dịch vụ nghèo nàn, không tạo nên được sự hấp dẫn để thu hút khách. Sản phẩm du lịch ở cộng đồng đã được hình thành, nhưng do chưa đẩy mạnh được công tác tuyên truyền quảng bá tiếp thị sản phẩm, nên thu hút lượng khách đến cộng đồng tham quan du lịch chưa nhiều so với tiềm năng sẵn có.
* Một số giải pháp nhằm phát triển mô hình du lịch cộng đồng Tỉnh Sơn La
Thứ nhất, về cơ chế chính sách: nhằm phát huy tối đa tiềm năng du lịch cộng đồng và vận hành hiệu quả mô hình du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh cần có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài tỉnh đầu tư phát triển du lịch cộng đồng như: nâng cấp cơ sở hạ tầng: đường giao thông, nhà sinh hoạt cộng đồng, khôi phục, phát triển các nghề thủ công truyền thống như: nghề dệt thổ cẩm, nghề thêu, nghề đan lát … phục vụ phát triển du lịch; Xây dựng sản phẩm du lịch mang đặc trưng riêng và có chất lượng của bản du lịch cộng đồng ; Quảng bá, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để khách du lịch trong và ngoài nước biết đến du lịch cộng đồng Sơn La; Bồi dưỡng, đào tạo kiến thức về du lịch cho cộng đồng; Bảo tồn, phát huy những đặc trưng văn hóa của địa phương; Tôn tạo và bảo vệ cảnh quan môi trường tại khu vực bản. Có chính sách hỗ trợ đầu ra cho các sản phẩm du lịch của địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình kinh doanh lưu trú tại gia ở bản du lịch cộng đồng như: thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký khách lưu trú … Tăng cường sự lãnh đạo cuả Đảng ủy, chính quyền các cấp địa phương trong phát triển du lịch cộng đồng, coi đây là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cấp trong phát triển kinh tế xã hội của địa phương; coi phát triển du lịch cộng đồng là loại hình phát triển kinh tế bền vững.
Thứ hai, về nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm du lịch phát triển du lịch cộng đồng: Du lịch là một trong những ngành kinh tế dịch vụ mang lại lợi ích kinh tế cao, vì thế để có thể thu hút được nhiều du khách đến tham quan thì chất lượng các loại hình dịch vụ cần phải đảm bảo và không ngừng nâng cao nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách tại địa phương như : dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ hướng dẫn tham quan, dịch vụ bán hàng lưu niệm, dịch vụ vui chơi giải trí,…
Thứ ba, về phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng các sản phẩm du lịch của Sơn La hiện nay hầu như chưa đáp ứng được thị hiếu và mong muốn của khách du lịch. Sản phẩm du lịch cộng đồng là nhân tố góp phần tăng sức hấp dẫn cho điểm đến, giữ chân du khách, khuyến khích chi tiêu và là biện pháp quảng bá hình ảnh du lịch hiệu quả. Vì vậy cần có những giải pháp đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm như : Đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ nông nghiệp; Khuyến khích người dân chế biến những loại rượu từ men lá cây của địa phương, rượu ngô, rượu sơn tra … Hỗ trợ người dân địa phương tham gia sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ phục vụ nhu cầu mua sắm của khách du lịch: đồ thổ cẩm (túi, áo, mũ, khăn, gối…); đồ mây tre đan: bàn, ghế, cung, nỏ, ếp, gùi, giá đựng … thân thiện với môi trường.
Thứ tư, Tăng cường công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống kết hợp phát triển du lịch cộng đồng. Tăng cường công tác tuyên truyền nhận thức phát triển du lịch cộng đồng tới các cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân trong các bản về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội trong phát triển loại hình du lịch cộng đồng giúp phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa, cảnh quan môi trường và phát huy khả năng của nhân dân trong phát triển kinh tế gắn với du lịch. Tăng cường các nguồn vốn đầu tư, gắn kết các chương trình, các nguồn vốn để tập trung xây dựng bản theo định hướng nông thôn mới nhưng vẫn giữ được nét văn hóa truyền thống, cảnh quan tự nhiên, gắn với công tác bảo vệ môi trường cộng đồng làng bản.
Thứ năm, về phát triển nguồn nhân lực. Tăng cường công tác đào tạo tại chỗ cho nhân dân các bản về các kỹ năng trong phát triển du lịch, phát huy khả năng của Ban quản lý các bản trong phát triển du lịch cộng đồng gắn với lợi ích của các hộ kinh doanh với lợi ích của cộng đồng trong bản. Tập trung nguồn vốn đầu tư trọng tâm, trọng điểm cho từng bản, thường xuyên tổ chức cho nhân dân tham gia học tập kinh nghiệm tho hướng chỉ việc tại các tỉnh có sự phát triển du lịch cộng đồng có vị trí địa lý giống với Sơn La. Tăng cường nguồn kinh phí cho công tác đào tạo hướng dẫn các kỹ năng trong phát triển du lịch tới người dân tại các bản.
Thứ sáu, về quảng bá thu hút thị trường. Hỗ trợ cho các huyện, xã, phường, bản thực hiện tốt công tác tuyên truyền quảng bá hình ảnh các bản du lịch cộng tới các công ty, hãng lữ hành trong và ngoài nước. Tập trung nguồn kinh phí cho việc xây dựng tập gấp, tờ rơi quảng bá tại các Hội trợ triển lãm trong và ngoài nước; Cung cấp thông tin cho các chương trình quảng cáo của các đài phát thanh truyền hình trong và ngoài tỉnh, xây dựng các tập phim, đĩa CD, DVD tư liệu về cuộc sống, cảnh quan thiên nhiên, cảnh quan môi trường, các nét văn hóa, ẩm thực truyền thống của các bản du lịch cộng đồng nhằm thu hút sự quan tâm của du khách.
Ngoài ra việc đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường cho phát triển du lịch cộng đồng cũng được coi là một yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công tại các bản triển khai mô hình du lịch cộng đồng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tỉnh ủy Sơn La, Nghị Quyết về phát triển du lịch Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 số 19 – NQ/TU ngày 01/4/2013.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Quyết định về ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 19- NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Sơn La về phát triển du lịch Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 số 1489/QĐ- UBND ngày 16/7/2013.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Quy hoạch phát triển du lịch Sơn La giai đoạn giai đoạn 2007-2015 và định hướng đến 2020 (Quyết định số 743/QĐ-UBND ngày 26/3/2008 của UBND tỉnh Sơn La).
- Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Văn hóa thể thao và du lịch, báo cáo kết quả triển khai dự án hỗ trợ 04 bản du lịch cộng đồng giai đoạn I tại thành phố Sơn La và huyện Mộc Châu, tháng 7/2014
- Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Ban chỉ đạo phát triển du lịch, Số: 09/BC-BCĐPTDL, Báo cáo kết quả công tác năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016
- Nguyễn Văn Đính; Trần Thị Minh Hòa, Giáo trình kinh tế du lịch, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2008.
- Nguyễn Văn Lưu (2006), Phát triển du lịch cộng đồng trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí du lịch số 10/2006.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Sơn La giai đoạn 2007 – 2015 và định hướng đến 2020, Sơn La 2007.
- Đề tài cấp tỉnh: Nghiên cứu xây dựng mô hình bản du lịch sinh thái cộng đồng tại xã Chiềng Yên (Mộc Châu) và xã Mường Do (Phù Yên) – Tỉnh Sơn La, Nguyễn Đình Phong, Sở Thương mại và Du lịch Sơn La, 2007 – 2008.
- Đề tài cấp tỉnh: Nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa các dân tộc phục vụ phát triển du lịch huyện Mộc Châu, TS. Nguyễn Anh Cường, Đại học Văn hóa Hà Nội, 2008 – 2009.
- Đề tài cấp tỉnh: Nghiên cứu tiềm năng du lịch sinh thái và nhân văn huyện Quỳnh Nhai, Viện Dân tộc học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2011 – 2012.
- Sở Thương mại và Du lịch Sơn La, Đề án Điều tra, khảo sát thị trường du lịch sinh thái cộng đồng tỉnh Sơn La số 25/ĐA – STMDL ngày 08 tháng 11 năm 2006.
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sơn La, Dự án Hỗ trợ 4 bản du lịch cộng đồng giai đoạn 1 trên địa bàn tỉnh Sơn La.
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sơn La, Báo cáo về việc thực luật Di sản văn hóa – năm 2013
Th.S. Lê Thị Thanh Nhàn
Trường Đại học Tây Bắc